Bản án 167/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 167/2019/HS-ST NGÀY 23/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 162/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 163/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Lò Văn B, sinh năm 1999, tại huyện Q, tỉnh Sơn La; nơi ĐKNKTT: Bản N, xã N, huyện Q, tỉnh Sơn La; chỗ ở hiện nay: Tiểu khu 3, thị trấn M, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn T và bà Bạc Thị Ư, bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/6/2019 đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 11/6/2019, tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu N, thị trấn N, huyện M, tỉnh Sơn La, qua kiểm tra hành chính về ma túy với Lò Văn B đã phát hiện Lò Văn B đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 gói nilon màu trắng, bên trong đựng 08 viên nén màu hồng. Lò Văn B khai là Methamphetamie cất giữ nhằm mục đích để sử dụng.

Tổ công tác đã lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, dẫn giải Lò Văn B về Công an huyện M để điều tra làm rõ, tạm giữ của Lò Văn B 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA VISION màu trắng, biển kiểm soát 26G1-097.39.

Ngày 12/6/2019, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M phối hợp với VKSND huyện M và Phòng Kỹ Thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng, số lượng số ma túy của Lò Văn B, kết quả: 08 viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn B có khối lượng 0,72 gam, lấy 02 viên có khối lượng 0,17 gam làm mẫu giám định ký hiệu “B”. Cơ quan Công an huyện M ra quyết định trưng cầu giám định chất ma túy và loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 1074 ngày 13/6/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu B là ma túy, loại chất Methamphetamie; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0,72 gam; loại Methamphetamie.

Quá trình điều tra Lò Văn B khai nhận: Lò Văn B, cư trú tại: Bản N, xã N, huyện Q, tỉnh Sơn La đến làm thuê cho nhà nghỉ C ở tiểu khu 3, thị trấn M, huyện M do chị Bùi Thị H, sinh năm 1982, nơi cư trú: Tiểu khu 8, thị trấn M, huyện M làm chủ. Khoảng 09 giờ ngày 11/6/2019 Lò Văn B điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA VISION màu trắng, biển kiểm soát 26G1-097.39 đi đến rừng T thuộc bản Á, xã Đ, huyện M, khi B đang đứng ở cổng rừng T thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết, qua trao đổi B mua được của người đàn ông đó 01 gói nilon màu trắng bên trong đựng 08 viên nén màu hồng là Methamphetamie với giá 700.000đ. Sau khi mua được Methamphetamie B cất giấu vào túi quần đang mặc rồi điều kiển xe máy đi về nhà nghỉ C. Khi về đến phòng nghỉ B mở gói Methamphetamie ra kiểm tra rồi gói lại và cất giấu vào giỏ đựng kem đánh răng trong phòng ngủ của B. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày B lấy gói nilon màu trắng đựng Methamphetamie ra cho vào hốc để đồ bên phải bên dưới ổ khóa điện xe máy nhãn hiệu HONDA VISION màu trắng, biển kiểm soát 26G1-097.39 rồi một mình điều khiển xe máy đi chơi, khi B đi đến khu vực tiểu khu N, thị trấn N, huyện M thì bị tổ công tác Công an huyện M phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Bản cáo trạng số: 162/CT-VKSMC ngày 04 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Lò Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M giữ nguyên quan điểm truy tố Lò Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

1. Tuyên bố Lò Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt Lò Văn B từ 18 tháng đến 21 tháng tù;

Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,55 gam Methamphetamie cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Lò Văn B.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện M đã trả lại 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA VISION màu trắng, biển kiểm soát 26G1-097.39; cho chủ sở hữu là chị Bùi Thị H.

3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo Lò Văn B thừa nhận: Hồi 20 giờ 30 phút ngày 11/6/2019 Lò Văn B đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 01 gói nilon màu trắng, bên trong đựng 08 viên Methamphetamie có khối lượng 0,72 gam, với mục đích để sử dụng thì bị bắt quả tang cùng vật chứng.

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết quả điều tra được chứng minh như sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Vật chứng thu giữ trong vụ án; Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Lò Văn B đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Do vậy cần xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức hình phạt phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo. Việc cách ly bị cáo một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có thể đảm bảo được điều kiện và thời gian để bị cáo cải tạo, giáo dục trở thành người tốt có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời nhằm răn đe phòng ngừa giáo dục chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa thấy rằng bị cáo không có tài sản nên không phạt bổ sung - phạt tiền đối với bị cáo theo quy định của khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Đi với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,55 gam Methamphetamie cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng test thử ma túy của Lò Văn B, là vật Nhà nước cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA VISION màu trắng, biển kiểm soát 26G1-097.39, số khung 482516, số máy 0562652 (xe đã qua sử dụng cũ) quá trình điều tra xác định chiếc xe máy là tài sản hợp pháp của chị Bùi Thị H, bị cáo sử dụng chiếc xe để thực hiện hành vi phạm tội chị H hoàn toàn không biết và không liên quan. Việc cơ quan CSĐT đã giao trả chiếc xe cho chị H quản lý và sử dụng là đúng quy định của pháp luật, do đó không đề cập tới việc giải quyết.

[5] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Thời hạn tạm giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lò Văn B phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Lò Văn B 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 12/6/2019.

Không áp dụng hình phạt bổ sung - Phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụ: Lò Văn B, bắt ngày 11/6/2019: Bên trong đựng 06 viên = 0,55 gam Methamphetamie cùng với vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy của Lò Văn B, ngày 11/6/2019. Kq: Dương tính, bên trong đựng test thử ma túy của Lò Văn B.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khon 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Lò Văn B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 23/9/2019.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 167/2019/HS-ST ngày 23/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:167/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về