Bản án 163/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 163/2019/HS-ST NGÀY 12/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 146/2019/TLST- HS ngày 11 tháng 6 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 156/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1995 tại tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Xóm 4, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Q, sinh năm 1965 và bà Lê Thị H, sinh năm 1968; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/12/2018 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Hoàng T; Vắng mặt.

2. Trần Đức T; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 18/12/2018 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã T phối hợp với Công an phường B tuần tra trên phường B. Khi đến tiệm cầm đồ Tiến Thành 1, thuộc khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì phát hiện Phạm Văn T đang ngồi trên xe mô tô biển số 59D1 – 281.22 có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra. Khi thấy lực lượng Công an T đã ném 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (nghi vấn là ma túy tổng hợp) xuống đường thì bị lực lượng Công an khống chế lập biên bản phạm tội quả tang. T khai do gặp Công an hoảng sợ nên ném gói ma túy xuống đường. Kiểm tra tại phòng trọ của T tại địa chỉ: 48L/8 khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì thu giữ 01 túi nylon một đầu miệng kéo dính, một đầu hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, 01 bộ sử dụng ma túy.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 túi nylon một đầu miệng kéo dính, một đầu hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng, 01 bộ sử dụng ma túy; 01 xe mô tô biển số 59D1 – 281.22.

Tại Bản kết luận giám định số 56/MT-PC09 ngày 19/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:

+ Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0777gam (M1); 0,1283 gam (M2), loại Methamphetamine.

Bản Cáo trạng số 165/CT-VKS-TA ngày 10/6/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội ‘‘Tàng trữ trái phép chất ma túy’’ theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng.

- Về trách nhiệm hình sự: Đánh giá các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo Phạm Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Phạm Văn T mức hình phạt từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về xử lý vật chứng:

+ 02 bì thư niêm phong, bên ngoài ghi số vụ 56/18/12/18 (mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, số loại Taurus -16S4, dung tích xy lanh 113,7cm3, mang biển số 59D1 – 281.22, số khung RLCS16S40BY008251, số máy 16S3-009863. Quá trình điều tra bị cáo Trọng khai nhận mượn xe của một người tên C (không rõ lai lịch) và không có giấy chứng nhận đăng ký xe. Qua xác minh truy kiểm tra biển số và số khung, số máy của xe mô tô trên tại Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bình Dương được biết biển số 59D1-281.22 chủ xe Thái Thanh D địa chỉ: 159/9/13 Nguyễn S, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên sở hữu nhưng qua xác minh tại địa chỉ trên không có ai tên Thái Thanh D. Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành tra cứu số khung RLCS16S40BY008251, số máy 16S3-009863 chiếc xe trên nhưng không tìm thấy dữ liệu. Công an thị xã T đã thông báo truy tìm chủ sở hữu hợp pháp nhưng cho đến nay không có ai liên hệ để xử lý nên đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước xe mô tô mang biển số 59D1 – 281.22, số khung RLCS16S40BY008251, số máy 16S3-009863.

Bị cáo Phạm Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, không có ý kiến gì về nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T đã truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo trước Tòa. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 18/12/2018, tại khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương và Công an phường B, thị xã T bắt quả tang bị cáo Phạm Văn T về hành vi Tàng trữ trái phép 0,0777 gam ma túy loại Methamphetamine. Tiến hành khám xét nơi ở của Phạm Văn T, lực lượng Công an thu giữ thêm 0,1283 gam ma túy loại Methamphetamine và bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Hành vi của bị cáo Phạm Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội danh và khung hình phạt nêu trên là có căn cứ, đúng người và đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo Phạm Văn T là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo là người đã thành niên, đồng thời là người nghiện ma túy biết được tác hại của ma túy sẽ dễ tiến gần đến tội phạm và hiểm họa bệnh tật, bị cáo nhận thức được tính nguy hiểm, trái pháp luật hình sự do hành vi mình thực hiện, nhưng vì muốn có ma túy sử dụng nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả và pháp luật, do đó cần có mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo để có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều có có thái độ thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải; bị cáo có ông nội được Chủ tịch nước truy tặng huân chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Phạm Văn T mức hình phạt từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù là phù hợp nên được chấp nhận.

[4] Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 02 bì thư niêm phong, bên ngoài ghi số vụ 56/18/12/18 (mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy là tang vật của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.

+ 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, số loại Taurus -16S4, dung tích xy lanh 113,7cm3, mang biển số 59D1 – 281.22, số khung RLCS16S40BY008251, số máy 16S3-009863. Quá trình điều tra bị cáo T khai nhận mượn xe của một người tên C (không rõ lai lịch) và không có giấy chứng nhận đăng ký xe. Qua xác minh truy kiểm tra biển số và số khung, số máy của xe mô tô trên tại Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bình Dương được biết biển số 59D1-281.22 chủ xe Thái Thanh D, địa chỉ: 159/9/13 Nguyễn S, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên sở hữu nhưng qua xác minh tại địa chỉ trên không có ai tên Thái Thanh D. Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành tra cứu số khung RLCS16S40BY008251, số máy 16S3-009863 chiếc xe trên nhưng không tìm thấy dữ liệu. Công an thị xã T đã thông báo truy tìm chủ sở hữu hợp pháp nhưng cho đến nay không có ai liên hệ để xử lý nên đề nghị tịch thu sung ngân sách nhà nước xe mô tô mang biển số 59D1 – 281.22, số khung RLCS16S40BY008251, số máy 16S3-009863.

[5] Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo Phạm Văn T hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch và địa chỉ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã T tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào xác minh được sẽ xử lý sau.

 [6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

+ Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

+ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

+ Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án,

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 13 (mười ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/12/2018.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 02 bì thư niêm phong, bên ngoài ghi số vụ 56/18/12/18 (mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hai bánh nhãn hiệu Yamaha, số loại Taurus -16S4, dung tích xy lanh 113,7cm3, mang biển số 59D1 – 281.22, số khung RLCS16S40BY008251, số máy 16S3-009863.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/6/2019 giữa Công an thị xã Thuận An và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T).

3. Về án phí: Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 163/2019/HS-ST ngày 12/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:163/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về