Bản án 16/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 28/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 15/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:16/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Lương Thành T, sinh năm 1982 tại huyện C, tỉnh An Giang; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; ĐKHKTT: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; nghề nghiệp không; trình độ văn hoá (học vấn) 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn Q (chết) và bà Lê Kim H; sống chung như vợ chồng với Nguyễn Thị Mộng T, Ngô Thị P đã ly thân, sau đó sống chung với Trần Thị Ai S. Tất cả đều không có đăng ký kết hôn; có 01 người con nhỏ.

Tiền án: không,

Tiền sự: 01 lần. Ngày 06/4/2018, bị Ủy ban nhân dân xã T ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, chấp hành xong ngày 06/7/2018;

Nhân thân: Từ nhỏ sống chung cha mẹ, học đến lớp 2 nghỉ phụ giúp gia đình. Ngày 10/7/2012, bị Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tổng hợp hình phạt là 02 năm 08 tháng tù, T kháng cáo. Ngày 27/9/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo. T đã chấp hành xong hình phạt ngày 10/4/2014 và án phí ngày 28/5/2013; riêng số tiền bồi thường cho bị hại Trần Thị Ngọc Q không yêu cầu, nên cơ quan Thi hành án không thụ lý.

Bị tạm giữ ngày 12/12/2018, chuyển tạm giam ngày 21/12/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Văn S, sinh năm 1991; nơi cư trú: ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang; Vắng mặt.

- Người làm chứng:

Trần Thị Ai S, sinh năm 1982; Có mặt;

Phạm Thị Thùy L, sinh năm 1994; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 12/12/2018, nhận được tin báo của cơ quan cảnh sát điều tra – công an huyện Chợ Mới bắt quả tang Lương Thành T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy trong phòng ngủ của T, tại ấp T, xã T, huyện C, mục đích để sử dụng. Thu giữ 02 bọc ma túy trên nền gạch và 01 bọc ma túy để trong áo gối đặt trên niệm trong phòng ngủ của T và các vật chứng khác có liên quan.

Vật chứng thu giữ :

- 03 bọc nilon được hàn kín, bên trong chứa chất rắn màu trắng; 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 1280; 01 điện thoại di động hiệu Mobile; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút màu trắng, trên cổ bình thủy tinh có gắn băng keo màu đen; 01 bật lửa màu đỏ; 01 bọc nilon trong suốt; 05 nỏ thủy tinh; 02 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 01 gối nằm bông màu đỏ vàng xanh, bên ngoài có bao áo gối bông màu trắng tím và số tiền 100.000đồng.

Kết luận giám định số 854/KLGĐ-PC09 ngày 19 tháng 12 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An Giang, kết luận: Phong bì số 1: Mẫu M1, M2 gửi đi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có tổng khối lượng: 0,5782 gram. Phong bì số 2: Mẫu M3 gửi đi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, có khối lượng: 0,2941 gram.

Tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 19 tháng 4 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới đã truy tố bị cáo Lương Thành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tại phiên tòa, bị cáo Lương Thành T thừa nhận thực hiện hành vi tàng trữ ma túy như Cáo trạng truy tố, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Lương Thành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Lương Thành T có nhân thân xấu; trong quá trình điều tra đã thành khẩn khai báo đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lương Thành T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung.

Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng:

Tịch thu sung quỹ điện thoại di động hiệu NOKIA 1280; 01 điện thoại di động hiệu Mobile;

Tịch thu tiêu hủy: các phong bì được ký hiệu: phong bì số 01 được niêm phong; phong bì số 02 được niêm phong; 01 bình thủy tinh; 01 bật lửa; 01 bọc nilon; 05 nỏ thủy tinh; 02 cây kéo; 01 gối nằm;

Đối với số tiền 100.000 đồng là tài sản cá nhân của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị trả lại nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các chứng cứ, tài liệu cũng như kết quả điều tra của Cơ quan điều tra và bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới, thể hiện: Lương Thành T đã có 01 tiền sự về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Đến ngày 12/12/2018 Thuận lại bị bắt quả tang đang tàng trữ 0,8723 gam ma túy loại Methamphetamine. Đối chiếu theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:…; c) Methamphetamine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;… . Như vậy, hành vi cất giấu 0,8723 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng của bị cáo Thuận đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như đã viện dẫn ở trên. Cho nên, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay và lời buộc tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng hành vi của bị cáo nhận thấy: Ma túy là hiểm họa của loài người, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, là một trong những nguyên nhân gây nên căn bệnh hiểm nghèo, mầm mống nảy sinh tội phạm rất cao, người bị nghiện ma túy không còn chí thú lao động sản xuất, ngày càng sa sút về kinh tế và thể chất. Nhân dân địa phương lo sợ cho tương lai con em họ khi biết rằng xung quanh có những người như bị cáo đang gieo rắc cái chết trắng, họ rất bất bình trước hành vi của bị cáo. Do đó, Nhà nước bằng nhiều biện pháp kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, bài trừ, tiến tới xóa bỏ tệ nạn ma túy trong xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, cần có hình phạt nghiêm, cách li bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để có đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo thành người tốt, biết tôn trọng pháp luật, đồng thời góp phần răn đe đối với những ai có hành vi liên quan đến ma túy và nhằm tuyên truyền ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lương Thành T thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên có xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Đối với 01 điện thoại di động hiệu Mobile là vật chứng trong vụ án và 01 điện thoại di động hiệu NOKIA 1280 của bị cáo sử dụng liên hệ mua ma túy. Đây là công cụ liên quan đến việc phạm tội còn giá trị sử dụng nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước;

[5.2] Đối với các phong bì được ký hiệu: phong bì số 01 được niêm phong (Vụ số: 854/KLGT – PC09 ngày 19/12/2018). Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định có khối lượng 0,4991 gam (không phẩy bốn chín chín một gam), loại Methamphetamine; phong bì số 02 được niêm phong (Vụ số:854/KLGT – PC09 ngày 19/12/2018). Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định có khối lượng 0,2343 gam (không phẩy hai ba bốn ba gam), loại Methamphetamine; 01 bình thủy tinh; 01 bật lửa; 01 bọc nilon; 05 nỏ thủy tinh; 02 cây kéo; 01 gối nằm. Đây là các vật dụng được dùng vào việc tàng trữ ma túy, hiện nay không còn giá trị và là những vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[5.3] Đối với số tiền 100.000đồng cơ quan thu giữ của bị cáo T. Tại phiên tòa bị cáo T xác định đây là số tiền của bị cáo dùng để tiêu xài không sử dụng vào việc mua ma túy nên cần được trả lại cho bị cáo nhưng do bị cáo có nghĩa vụ về tài sản nên cần tiếp tục tạm giữ để thi hành án. 

[6] Hình phạt bổ sung: Bị cáo sinh sống không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[7] Các vấn đề khác:

[7.1] Hồ Quốc T bán ma túy cho T, đã được Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử xong.

[7.2] Người tên T (không rõ họ, địa chỉ) do T khai bán ma túy cho T cơ quan Cảnh sảt điều tra tiếp tục làm rõ, xử lý sau.

[7.3] Nguyễn Văn S được T cho sử dụng ma túy 01 lần vào ngày 11/12/2018, hành vi vi phạm đã được Ủy ban nhân dân xã T giao cho cơ sở điều trị, cai nghiện ma túy tỉnh An Giang cắt cơn, giải độc ngày 12/12/2018.

[7.4] Nguyễn Văn S, Trần Thị Ai S, Phạm Thị Thùy L không biết Thuận tàng trữ trái phép chất ma túy, nên cơ quan điều tra không xử lý.

[7.4] Thuận khai trước ngày bị bắt quả tang nhiều lần mua ma túy về cất giấu sử dụng, do không thu giữ được vật chứng để giám định, nên không quy kết phạm tội nhiều lần.

[8] Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lương Thành T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt: Bị cáo Lương Thành T 02 (Hai) năm tù;

Thời hạn chấp hành hình phạt của bị cáo được tính kể từ ngày bị tạm giữ ngày 12/12/2018 (ngày mười hai tháng mười hai năm hai nghìn không trăm mười tám).

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

01 điện thoại di động hiệu NOKIA 1280; 01 điện thoại di động hiệu Mobile; Tịch thu tiêu hủy: các phong bì được ký hiệu: phong bì số 01 được niêm phong (Vụ số: 854/KLGT – PC09 ngày 19/12/2018) có in dấu tròn màu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên: Nguyễn Kiều T, Trần Thị T và Đặng Hữu T. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định có khối lượng 0,4991 gam (không phẩy bốn chín chín một gam), loại Methamphetamine; phong bì số 02 được niêm phong (Vụ số: 854/KLGT – PC09 ngày 19/12/2018) có in dấu tròn màu đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang và các chữ ký ghi tên: Nguyễn Kiều T, Trần Thị T và Đặng Hữu T. Bên trong có mẫu vật còn lại sau khi đã giám định có khối lượng 0,2343 gam (không phẩy hai ba bốn ba gam), loại Methamphetamine; 01 bình thủy tinh có gắn nỏ thủy tinh và ống hút màu trắng, trên cổ bình thủy tinh có gắn băng keo màu đen; 01 bật lửa màu đỏ; 01 bọc nilon trong suốt; 05 nỏ thủy tinh; 02 cây kéo bằng kim loại màu trắng; 01 gối nằm bông màu đỏ vàng xanh, bên ngoài có bao áo gối bông màu trắng tím; Đối với số tiền 100.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0001102 do Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 20 tháng 5 năm 2019 là tài sản cá nhân của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên cần được trả lại nhưng do bị cáo phải có nghĩa vụ về tài sản nên được tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo Biên lai thu tiền ngày 20/5/2019 và biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/5/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới).

Căn cứ các Điều 135, Điều 136 Bộ lu t Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thu n thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Lu t Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 28/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về