Bản án 16/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 16/2019/HS-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại Hội T xét xử Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14A/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H(Tên gọi khác: không có), sinh ngày 11 tháng 6 năm 1990 tại Quảng Trị; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn T, xã T, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V, sinh năm 1966 và bà Lê Thị L, sinh năm 1966; có vợ là Võ Thị Kim V, sinh năm 1998; có 01 con; đều trú tại: thôn T, xã T, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 12/10/2008, bị TAND tỉnh Quảng Trị xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp tài sản”, chấp hành xong ngày 12/10/2011.

- Ngày 25/7/2013, bị Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa người vào cơ sở giáo dục về hành vi gây rối trật tự công cộng, thi hành tại CSGD Hoàn Cát đến ngày 25/01/2015 thì chấp hành xong.

- Ngày 18/4/2019 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Cướp tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 168, 173 BLHS.

Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gio Linh từ ngày 15/02/2019 đến nay. Có mặt.

* Bị hại:

- Anh Dương Quốc V, sinh năm 1974; chị Lê Thị L, sinh năm 1976;

Cùng địa chỉ: thôn C, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.

Anh Dương Quốc V ủy quyền cho chị Lê Thị L tham gia phiên tòa.

Chị Lê Thị L vắng mặt.

- Anh Phan Thanh N, sinh năm 1989;

Địa chỉ: thôn C, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

- Chị Trần Thị D, sinh năm 1983; anh Bùi Văn L, sinh năm 1978;

Cùng địa chỉ: thôn H, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.

Anh Bùi Văn L ủy quyền cho chị Trần Thị D tham gia phiên tòa.

Chị Trần Thị D vắng mặt.

- Anh Phan Thanh T, sinh năm 1977;

Địa chỉ: thôn H, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị.

Anh Phan Thanh T ủy quyền cho anh Phan Văn N (em trai) tham gia phiên tòa.

 Địa chỉ: thôn H, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.

- Anh Lê Văn T, sinh năm 1989;

Địa chỉ: thôn M, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

- Chị Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm 1978;

Địa chỉ: thôn M, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Ông Trần V T, sinh năm 1962;

Địa chỉ: thôn 4, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

- Anh Võ Minh L, sinh năm 1986;

Địa chỉ: thôn 4, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

- Anh Bùi Đình D, sinh năm 1978;

Địa chỉ: thôn 4, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Võ Thị Kim V, sinh năm 1998;

Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 ngày 07/02/2019, Nguyễn Văn H nảy sinh ý định tìm nhà dân sơ hở để trộm cắp tài sản. H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 74E1-010.51 đến địa phận thôn C, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Khoảng 00 giờ 15 phút, ngày 08/02/2019 H giấu xe vào hàng cây bên đường rồi đi dọc đường bê tông liên thôn thì phát hiện nhà anh Dương Quốc V hé mở cửa chính. H vào nhà đi đến phòng ngủ lấy túi xách bằng vải màu đen treo ở móc áo quần, tiếp tục vào phòng bếp, lấy điện thoại Nokia 1280 đặt ở trên bàn. Tiếp đó,

Hđến phòng khách lấy “Dao lam” H mang theo cắt màn nơi anh V nằm ngủ, rồi luồn tay vào lấy điện thoại Samsung Galaxy Note 8 đang sạc pin để trên sàn nhà sát vị trí anh V nằm ngủ. Sau đó H đi ra tường rào mở túi xách lấy 16.000 đồng bỏ vào túi quần rồi đào đất chôn túi xách cùng giấy tờ tùy thân trong túi. Nguyễn Văn H tiếp tục đi dọc đường bê tông được khoảng 400m, thì phát hiện nhà anh Phan Thanh Nam cửa không khóa, liền đi vào và lấy 01 điện thoại Samsung Galaxy J3 đang sạc pin ở dưới sàn nhà phía đầu giường, rồi ra lấy xe mô tô đi về. Khoảng 09 giờ cùng ngày, H đưa điện thoại Samsung Galaxy Note 8, điện thoại Samsung Galaxy J3 vào thành phố Huế mở khóa và về quán điện thoại di động Thanh Bình ở đường Trần Hưng Đạo, thị xã Quảng Trị bán điện thoại Samsung Galaxy Note 8 được 6.000.000 đồng. Điện thoại Samsung Galaxy J3 Hđưa vợ sử dụng, điện thoại Nokia 1280 Hcất giấu ở sau vườn nhà. Số tiền bán tài sản trộm cắp Hđã tiêu xài hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 03/KL-ĐGTS, ngày 15/02/2019 đã kết luận giá trị còn lại của các tài sản tại thời điểm ngày 08/02/2019 là:

- Điện thoại Samsung Galaxy Note 8 có giá 15.700.000 đồng.

- Điện thoại di động Samsung Galaxy J3 có giá 1.200.000 đồng.

- Điện thoại di động Nokia 1280 có giá 100.000 đồng.

Tổng trị giá còn lại của các tài sản trên là 17.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, ngoài lần phạm tội nêu trên Nguyễn Văn H còn khai ra trước đó đã thực hiện các vụ trộm cắp tài sản khác, cụ thể:

Khoảng 23 giờ, ngày 07/6/2018, Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô BKS 74E1-010.51 đến thôn H, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị để trộm cắp tài sản. Quan sát nhà chị Trần Thị D hé mở liền đi bộ vào nhà, phát hiện điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime để ở sàn nhà liền lấy bỏ vào túi quần và đến giường ngủ ở phía tây lấy điện thoại Samsung Galaxy J1 để ở phía đầu giường rồi đi ra khỏi nhà. Tiếp đó, H đến nhà anh Phan Thanh T thấy cửa không khóa liền đi vào phòng ngủ lấy điện thoại di động Huawei Y6 và một ví da trong quần dài của anh Phan Thanh T vắt ở thành cửa sổ. Hmở ví lấy 7.000.000 đồng rồi vứt bỏ ví trước sân nhà. Đến sáng ngày hôm sau, H đưa 03 điện thoại đã trộm cắp được vào thành phố Huế bán được 1.500.000 đồng và tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 05/KL-ĐGTS, ngày 17/4/2019 đã kết luận giá trị còn lại của các tài sản tại thời điểm ngày 07/6/2018 là:

- Điện thoại di động nhãn hiệu Huawei Y6 có giá 1.500.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J1 có giá 500.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime có giá 5.000.000 đồng.

 Tổng trị giá còn lại của các tài sản trên là 7.000.000 đồng.

Khoảng 22 giờ 30 phút, ngày 29/8/2018, Nguyễn Văn H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên điều khiển xe mô tô BKS 74E1-010.51 đến thôn M, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. H giấu xe rồi đi bộ, thấy cửa sổ nhà anh Lê Văn T đang mở liền đi đến phát hiện anh T đang ngủ ở giường đặt sát cửa sổ. H lấy “Dao lam” đã chuẩn bị sẵn cắt màn ngủ rồi luồn tay lấy điện thoại Nokia Lumia 930 để trong màn bỏ vào túi quần. Tiếp đó, H vòng ra phía trước đột nhập vào nhà theo lối cửa hông lấy điện thoại Huawei Y5 đang sạc để giữa sàn nhà phía trên đầu nằm của anh T, rồi đi ra khỏi nhà theo đường Quốc lộ 9 về Gio Việt. Đi được khoảng 100m thì thấy nhà chị Nguyễn Thị Lệ H đang xây chưa có cửa, liền đi vào phòng ngủ lấy chiếc điện thoại Samsung Galaxy J5 để trên bàn, rồi tiếp tục đi qua phòng ngủ của con gái chị H lấy điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime và Samsung Galaxy J5 để ở đầu giường và điện thoại Samsung Galaxy J2 để ở thành cửa sổ sát đầu giường rồi ra về. H đưa số tài sản lấy được vào thành phố Huế bán lấy tiền tiêu xài hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 06/KL-ĐGTS, ngày 17/4/2019 đã kết luận giá trị còn lại của các tài sản tại thời điểm ngày 29/8/2018 là:

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 có giá 3.600.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J2 có giá 2.300.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime có giá 3.700.000 đồng.

 - Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J5 có giá 1.000.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia Lumia 930 có giá 1.200.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Huawei Y5 có giá 1.500.000 đồng. Tổng trị giá còn lại của các tài sản trên là 13.300.000 đồng.

Khoảng 22 giờ, ngày 29/11/2018, H điều khiển xe mô tô BKS 74E1-010.51 đến thôn 4, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. H giấu xe rồi đi vào khu vực nhà dân. H thấy cửa hông nhà ông Trần V T khép hờ nên đi vào lấy điện thoại Nokia loại 105 để trên đầu giường ngủ của ông T, lấy bộ quần áo mưa ở hiên mặc vào người rồi tiếp tục tìm kiếm nhà dân sơ hở để trộm cắp. H đi được khoảng 100m, thì thấy cửa nhà dưới của nhà anh Võ Minh L khép hờ nên đi vào đến giường ngủ của anh L lấy điện thoại di động Samsung Galaxy A5 bỏ vào túi quần. Tiếp đó, H thấy phía trên tủ nhựa để quần áo có một cái điện thoại Samsung Galaxy J7 Prime và một cái điện thoại Samsung Galaxy Prime G531, H tiếp tục lấy bỏ vào túi quần rồi đi ra. Htiếp tục đến nhà anh Bùi Đình D lấy điện thoại Nokia 105 để trên tủ đựng ti vi rồi ra về. Trên đường đi, H thấy điện thoại Nokia 105 của anh D không hoạt động được nên vứt bỏ cùng với bộ quần áo mưa. Sau đó, H đưa số tài sản lấy trộm vào thành phố Huế bán được 1.100.000 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 07/KL-ĐGTS, ngày 17/4/2019 đã kết luận giá trị còn lại của các tài sản tại thời điểm ngày 29/11/2018 là:

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A5 có giá 4.500.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Prime có giá 1.300.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Grand Prime G531 có giá 700.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 có giá 200.000 đồng.

- Điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 có giá 200.000 đồng.

- 01 bộ áo mưa nhãn hiệu Rando có giá 150.000 đồng. Tổng trị giá còn lại của các tài sản trên là 7.050.000 đồng.

Tổng số tiền của các tài sản bị cáo Nguyễn Văn H trộm cắp thông qua kết quả định giá là 44.350.000 đồng, cùng với số tiền mặt bị cáo chiếm đoạt 7.016.000 đồng. Tổng cộng là 51.366.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 12/CT-VKS-GL ngày 27 tháng 5 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gio Linh đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 15/02/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 589 BLDS, buộc bị cáo Nguyễn Văn H bồi thường cho anh Võ Minh L số tiền 6.500.000 đồng; anh Phan Thanh T số tiền 7.000.000 đồng.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 33, 59 Luật Hôn nhân gia đình, Điều 213 Bộ luật dân sự, Điều 106 BLTTHS, Điều 47 BLHS: Tịch thu sung công quỹ Nhà nước giá trị ½ chiếc xe mô tô Yamaha Exciter BKS 74E1-010.51 là phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, trả lại cho đồng sở hữu giá trị ½ chiếc xe.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng, quyết định tố tụng: Trong giai đoạn điều tra, truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 6 năm 2018 đến tháng 02 năm 2019 Nguyễn Văn H đã 06 lần thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

- Ngày 07/6/2018 tại thôn H, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, Nguyễn Văn H Trộm cắp tài sản của chị Trần Thị D, anh Bùi Văn L trị giá 5.500.000 đồng; Trộm cắp tài sản của anh Phan Thanh T trị giá 8.500.000 đồng.

- Ngày 29/8/2018 tại thôn M, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, Nguyễn Văn H Trộm cắp tài sản của anh Lê Văn T trị giá 2.700.000 đồng; Trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Lệ H trị giá 10.600.000 đồng.

- Ngày 29/11/2018 tại thôn 4, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị, Nguyễn Văn H Trộm cắp tài sản của ông Trần V T, anh Võ Minh L và anh Bùi Đình D với tổng trị giá là 7.050.000 đồng.

- Ngày 08/02/2019 tại thôn C, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị,

Nguyễn Văn HTrộm cắp tài sản của vợ chồng anh Dương Quốc V chị Lê Thị L và tài sản của anh Phan Thanh N với tổng trị giá là 17.016.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản trong tất cả các vụ Trộm cắp tài sản là 51.366.000 đồng. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự như Cáo trạng đã truy tố là có căn cứ.

Điều luật quy định:

“2. Phạm tội một trong các T hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

…..

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”.

Bị cáo Nguyễn Văn H nhận thức rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng mong muốn có tiền tiêu xài mà không phải bằng công sức lao động của chính bản thân mình nên đã dẫn đến hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, liều lĩnh, táo bạo, không chỉ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm cho tình hình trật tự trị an trên địa bàn mất ổn định, gây tâm lý hoang mang lo lắng cho nhiều người. Bị cáo có nhân thân không tốt, năm 2008, bị cáo đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Năm 2013 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng. Ngày 18/4/2019 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Triệu Phong khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội “Cướp tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản”. Trong vụ án này, bị cáo có 06 lần thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản với tang số mỗi lần trên 02 triệu đồng, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS. HĐXX cũng thấy rằng: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, sau khi bị bắt về hành vi ngày 08/02/2019 bị cáo đã khai ra các vụ Trộm cắp tài sản vào các ngày 07/6/2018, 29/8/2018, 29/11/2018. Vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tự thú”, “người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, trên mức khởi điểm của khung hình phạt và cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3] Quá trình điều tra, xác định anh Võ Phi B, trú tại số 47, đường Lý Thường Kiệt, thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị là người đã mua điện thoại Samsung Galaxy Note 8. Tuy nhiên anh B không biết đó là tài sản do phạm tội mà có và anh B đã bán cho người khác, không xác định tên tuổi địa chỉ, nên không có cơ sở xem xét về trách nhiệm hình sự đối với anh Võ Phi B. Chị Võ Thị Kim V được bị cáo đưa cho dùng điện thoại Samsung Galaxy J3, chị V không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có, nên không có cơ sở xử lý.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại Dương Quốc V, Phan Thanh N, Trần Thị D, Lê Văn T, Nguyễn Thị Lệ H, Trần V T, Bùi Đình D không yêu cầu bồi thường nên không xem xét. Trong qúa trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn H thỏa thuận bồi thường cho bị hại anh Võ Minh L số tiền 6.500.000 đồng và thỏa thuận với anh Phan Văn N là đại diện theo ủy quyền của bị hại anh Phan Thanh T, bồi thường cho anh Phan Thanh T số tiền 7.000.000 đồng. Xét thấy các thỏa thuận trên là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật và các bên đề nghị Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận trong bản án, nên cần chấp nhận.

[5] Về vật chứng:

- Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gio Linh đã tạm giữ: 01 điện thoại Samsung Galaxy J3; 01 điện thoại Nokia 1280; 01 túi xách bằng vải màu đen trong đó có 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 001068, 01 giấy phép lái xe, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 003180, 01 thẻ bảo hiểm y tế (bị cáo giao nộp). Xác định điện thoại Samsung Galaxy J3 thuộc sỡ hữu của anh Phan Thanh N; điện thoại Nokia 1280 thuộc sỡ hữu của anh Dương Quốc V; 01 túi xách bằng vải màu đen, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 thẻ bảo hiểm y tế, 02 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 001068 và số 003180 thuộc sỡ hữu của chị Lê Thị L, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gio Linh đã trả lại tài sản cho các chủ sở hữu là đúng pháp luật.

- Đối với 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 8, 01 điện thoại Samsung Galaxy J1; 03 điện thoại Sam sung Glaxy J7 Prime; 01 điện thoại Huawei Y6; 01 điện thoại Nokia Lumia 930; 01 điện thoại Huawei Y5; 01 điện thoại Samsung Galaxy J2; 02 điện thoại Samsung Galaxy J5; 01điện thoại Nokia 105; 01 điện thoại Samsung Galaxy A5; 01 điện thoại Samsung Galaxy Grand Prime G531 bị cáo bán ở thị xã Quảng Trị và ở thành phố Huế. Quá trình điều tra không thu giữ được.

- Đối với lưỡi dao lam là công cụ phạm tội, đã tiến hành truy tìm vật chứng nhưng không tìm thấy.

- Đối với điện thoại Nokia 105 của anh Bùi Đình D và bộ quần áo mưa của ông Trần V T, bị cáo khai đã vứt bỏ nhưng không nhớ rõ vị trí, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gio Linh không có cơ sở để truy tìm.

- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 74E1-010.51 có giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn H, là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện các vụ Trộm cắp tài sản, nên cần phải tịch thu sung công quỹ nhà nước. Bị cáo khai đó là tài sản chung của vợ chồng, chị Võ Thị Kim V là vợ của bị cáo cũng cho rằng đó là tài sản chung của vợ chồng, tài sản được hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Mặt khác, chị V không biết bị cáo dùng chiếc xe mô tô trên để đi Trộm cắp tài sản. Vì vây, có căn cứ xác định xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 74E1- 010.51 là tài sản chung của vợ chồng, nên cần tuyên tịch thu sung công quỹ nhà nước giá trị ½ chiếc xe, trả lại cho chị Võ Thị Kim V ½ giá trị chiếc xe.

[6] Về áp dụng biện pháp ngăn chặn: Xét thấy thời hạn tạm giam của bị cáo còn lại dưới 45 ngày, căn cứ Điều 329 BLTTHS, Hội đồng xét xử ban hành Quyết định tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự theo Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 173, điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 27 (hai mươi bảy) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 15/02/2019.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 589 Bộ luật dân sự: Công nhận sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại giữa bị cáo Nguyễn Văn Hvà các bị hại, cụ thể: Bị cáo Nguyễn Văn H có nghĩa vụ bồi thường cho anh Võ Minh L số tiền 6.500.000 đồng và bồi thường cho anh Phan Thanh T số tiền 7.000.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, trong T hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền được xác định theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu sung công quỹ nhà nước giá trị ½ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter BKS 74E1-010.51, số máy 1S9A016172, số khung S9A0BY016165, trả lại cho chị Võ Thị Kim V ½ giá trị chiếc xe trên. Vật chứng hiện đang có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/6/2019.

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn Hphải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và không phải chịu án phí dân sự.

T hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HS-ST ngày 08/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:16/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về