Bản án 16/2019/HNGĐ-PT ngày 06/08/2019 về tranh chấp ly hôn, con chung

A ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 16/2019/HNGĐ-PT NGÀY 06/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, CON CHUNG

Trong ngày 06 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 15/2019/TLPT-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp “ly hôn, con chung”

Do bản án dân sự sơ thẩm số 186/2019/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 5 năm 2019 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 284/2019/QĐ-PT ngày 12 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Hà Thị Cẩm G , sinh năm 1994; Địa chỉ: xã V, huyện C, tỉnh An Giang. (có mặt).

2. Bị đơn: Trình Văn M , sinh năm: 1990; Địa chỉ: xã V, huyện C, tỉnh An Giang. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 05/12/2018, quá trình tố tụng nguyên đơn bà Hà Thị Cẩm Giang trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông M kết hôn vào năm 2015, hôn nhân do mai mối, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V , huyện C , tỉnh An Giang vào năm 2017. Trong thời gian chung sống, bà và ông M xảy ra nhiều mâu thuẫn về tiền bạc và tình cảm nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Bà và ông M nhiều lần hàn gắn nhưng không được. Bà và ông M đã ly thân từ tháng 6/2018 cho đến nay. Bà nhận thấy tình cảm giữa bà và ông M không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông M.

- Về con chung: Có 1 con chung tên Trình Văn K, sinh ngày 09/6/2017. Trước đây khi vợ chồng ly thân, bà có thỏa thuận giao con cho ông M nuôi dưỡng, tuy nhiên trong quá trình ly thân, bà về thăm con thì ông M mắng chửi, gây khó khăn cho bà khi thăm con, do đó, sau khi ly hôn, bà yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Tại tờ tự khai ngày 08/01/2019 và quá trình tố tụng, bị đơn ông Trình Văn M trình bày:

- Về hôn nhân: Ông thống nhất với bà G về thời gian và điều kiện hết hôn. Sau khi cưới nhau, vào năm 2016 ông phát hiện bà G cờ bạc, sử dụng tiền ông dành giụm và còn vay mượn nợ bên ngoài, vì thương vợ nên ông bỏ qua và vợ chồng làm ăn lo trả nợ. Năm 2018, ông tiếp tục phát hiện bà G không rõ ràng về tiền bạc nên vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và bà G bỏ về nhà cha mẹ ruột từ ngày 19/5/2018 cho đến nay. Nay bà G yêu cầu ly hôn, ông cũng nhận thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau nên ông đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Có 1 con chung tên Trình Văn K , sinh ngày 09/6/2017. Từ ngày 19/5/2018, bà G bỏ đi, bỏ con nhỏ lại cho ông nuôi đến nay. Trong quá trình nuôi dưỡng, ông và gia đình chăm sóc tốt cho cháu, đảm bảo cho cháu sự phát triển tốt, bản thân cháu cũng thích bà nội. Ông thừa nhận trong thời gian ly thân, khi bà G thăm con ông có thái độ nóng giận, mắng chửi bà G vì ông giận bà G đi bỏ con. Nay ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con và đồng ý tạo điều kiện cho bà G tới lui thăm nom, chăm sóc con, ông không yêu cầu bà G cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Ti phiên tòa:

- Bà G trình bày: Bà vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn, yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông M phải cấp dưỡng nuôi con.

- Ông M: đồng ý ly hôn với bà G ; ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con, ông chỉ đồng ý cho bà G đến nhà ông thăm cháu K , không đồng ý cho bà G rước con về thăm ngoại 1-2 ngày.

Ti bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện C tuyên xử:

- Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Hà Thị Cẩm G và ôngTrình Văn M . Giấy chứng nhận kết hôn số 34 ngày 12/5/2017của Ủy ban nhân dân xã V , huyện C , tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

- Về con chung: Bà Hà Thị Cẩm G được quyền nuôi con chung tên Trình Văn K, sinh ngày 09/6/2017. Ông Trình Văn M không phải cấp dưỡng nuôi con do bà G không yêu cầu.

Cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc nuôi con có thể bị thay đổi dựa trên cơ sở lợi ích của con Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 29/5/2019 ông Trình Văn M có đơn kháng cáo đối với phần quyết định về con chung của bản án sơ thẩm số 186/2019/HNGĐ-ST ngày 29/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, An Giang.

Ti phiên tòa phúc thẩm:

Nguyên đơn bà Hà Thị Cẩm G đồng ý giao cháu Trình Văn K cho ông Trinh Văn M nuôi dưỡng, với điều kiện ông M phải tạo điều kiện thuận lợi để bà được tới lui, thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung và cho bà được rước con về nhà ngoại chơi.

Bị đơn: Vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày trong quá trình giải quyết ở cấp sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét cho ông được quyền nuôi dưỡng cháu K , ông đồng ý tạo điều kiện cho bà G trong việc thăm nom con chung, cũng như đồng ý cho bà G rước cháu M về nhà ngoại chơi. Nếu được nuôi con ông không yêu cầu bà G cấp dưỡng.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu ý kiến:

+ Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

+ Về nội dung: Quá trình giải quyết ở cấp phúc thẩm và tại phiên tòa ông M và bà G đã thỏa thuận đươc với nhau về việc nuôi con chung nên đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của ông M và bà G , căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận yêu cầu kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Trình Văn M kháng cáo trong hạn luật định và có đóng tạm ứng án phí đầy đủ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Đối với yêu cầu kháng cáo của ông M thấy rằng: Ông M và bà G thống nhất vợ chồng có 01 con chung tên Trình Văn K , sinh ngày 09/6/2017, hiện nay cháu K đang do anh M trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi ly hôn, bà G và ông M đều yêu cầu được nuôi con chung và cả hai đều cung cấp chứng minh cho yêu cầu của mình. Cháu K sinh ngày 09/6/2017, đến ngày xét xử sơ thẩm cháu K chưa tròn 36 tháng tuổi, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Tuy nhiên, tại phiên tòa sơ thẩm, bà G thỏa thuận với ông M giao cháu K cho ông M nuôi dưỡng với điều kiện ngoài việc tới lui thăm nom, chăm sóc con, cho bà được thỉnh thoảng rước con đi chơi, về nhà thăm ngoại 1-2 ngày, nếu ông M không đồng ý bà G yêu cầu được nuôi con, bà G đồng ý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ông M trong việc tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Hội đồng xét xử sơ thẩm giải thích nhiều lần về quyền và nghĩa vụ của người được trực tiếp nuôi con và người không trực tiếp nuôi con nhưng ông M vẫn không đồng ý với yêu cầu chính đáng của bà G , hạn chế quyền và nghĩa vụ làm mẹ của bà G trong việc thăm nom, chăm sóc con chung được quy định tại Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Do đó, cấp sơ thẩm quyết định giao cháu K cho bà G được nuôi dưỡng là đúng theo qui định pháp luật.

Ti phiên tòa phúc thẩm hôm nay ông M và bà G thỏa thuận ông M sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho bà G được quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung, cũng như cho bà G được rước cháu K về nhà ngoại chơi và bà G đồng ý giao cháu Trình Văn K , sinh ngày 09/6/2017 cho ông M nuôi dưỡng, bà G không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Nhận thấy, đây là sự tự nguyện của ông M và bà G nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyên này. Từ nhận định trên nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông M và chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, sửa bản án sơ thẩm.

Do kháng cáo được chấp nhận nên ông Minh được nhận lại án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, khoản 1 Điều 148 và Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

- Chấp chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trình Văn M. Sửa một phần bản án sơ thẩm số 186/2019/HNGD-ST ngày 29/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang.

Về con chung: Công nhận sự tự nguyện của ông M và bà Giang. Ông Trình Văn M được quyền nuôi con chung tên Trình Văn K , sinh ngày 09/6/2017. Bà Hà Thị Cẩm G không phải cấp dưỡng nuôi con do ông M không yêu cầu.

Cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Việc nuôi con có thể bị thay đổi dựa trên cơ sở lợi ích của con.

- Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm:

Ông Trình Văn M được nhận 300.000 đổng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm theo biên lai thu số 0014341 ngày 18/6/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trưng hợp bản án được thi hành theo quy định ở Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

503
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2019/HNGĐ-PT ngày 06/08/2019 về tranh chấp ly hôn, con chung

Số hiệu:16/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về