Bản án 16/2018/HS-ST ngày 29/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 16/2018/HS-ST NGÀY 29/03/2018 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 29 tháng 03 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2018/HSST ngày 26 tháng 02 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXXST-HS ngày 14/03/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Công Ngh, Sinh năm 1994. Tên gọi khác: Không có.

- Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 20 A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang.

- Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

- Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hóa: 12/12.

- Họ tên bố: Phạm Công T, sinh năm 1963;

- Họ tên mẹ: Nguyễn Thị Th, sinh năm 1966.

- Gia đình có 03 chị em ruột, bị cáo là thứ ba.

- Vợ: Hà Thị Ngọc A, sinh năm 1996 hiện ở 20A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang.

- Con: Bị cáo có 01 con sinh năm 2014.

- Tiền án, tiền sự: Chưa có.

- Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, hiện bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. ( có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Anh Ngô Xuân A, sinh năm 1997

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang.

- Người liên quan:

1. Anh Giáp Văn N, sinh năm 1993

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( Vắng mặt)

2. Anh Phạm Công D, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn 20A , xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( Có mặt).

3. Ông Giáp Văn X, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( Có mặt)

4. Bà Phạm Thị T, sinh năm 1966

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( Vắng mặt)

5. Phạm Công T, sinh năm 1963.

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( Có mặt)

- Người làm chứng:

1. Anh Phạm Văn N, sinh năm 1986;

Địa chỉ: Thôn A, xã B, thành phố C, tỉnh Bắc Giang. ( Vắng mặt).

2. Anh Giáp Văn S, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( Vắng mặt).

3. Anh Ngô Văn L, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang( Vắng mặt)

4. Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang. ( vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều tối ngày 21/10/2017, Phạm Công Ngh, sinh năm 1994 ở thôn 20A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang cùng với Phạm Công D, sinh năm 1990; Phạm Công T, sinh năm 1994; cháu Phạm Công M, sinh năm 2010 ở cùng thôn đến nhà ông Giáp Văn X, sinh năm 1968 ở thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang để ăn liên hoan con ông X là Giáp Văn S, sinh năm 1997 đi xuất khẩu lao động. Giáp Văn S có mời Ngô Xuân A, sinh năm 1997 ở cùng thôn và một số bạn bè khác đến ăn cơm chia tay S. Đến khoảng gần 20 giờ, sau khi ăn cơm xong, Ngh và D đi vào trong nhà ông X ngồi uống nước khoảng 10 phút thì xin phép gia đình ông X để ra về. Ngh và D ra sân gần lối đi ra cổng và gọi S ra để đưa tiền mừng và chào ra về. S ra gặp Ngh và D nói chuyện thì anh Ngô Xuân A đi theo bảo Squay lại ngồi uống rượu. Lúc này, giữa anh A và Ngh, D có lời qua tiếng lại (D và Ngh khai anh A có nói “thôi, vào đi, kệ mẹ chúng nó…” và một số câu hỗn láo xúc phạm tới D và Ngh) thì Nghiệp nói “Để anh em tao nói chuyện”. Sau đó, D, Ngh không nói gì với anh A nữa và quay sang nói chuyện với S thêm một lúc rồi chào S ra về. Về được khoảng 200m thì D nói với Ngh: “Hai anh em quay lại xem mặt mũi thế nào nói chuyện”, Ngh đồng ý dừng xe lại rồi bế cháu M sang xe của T và bảo T chở M đi về trước. Còn D cầm lái xe mô tô chở Nghiệp quay lại nhà S để nói chuyện với anh A. D dựng xe máy trên lối đi từ cổng vào sân, rồi cùng Ngh đi ngang qua sân trước cửa nhà chính nhà ông X về phía nhà bếp. Ngh đi lên hiên ngồi bệt ở bậc trên cùng, gần đầu hồi bên trái hiên nhà chính, quan sát anh A đang uống rượu dưới sân, còn D thì đi ra đứng ở sân trước cửa nhà bếp nhìn vào sân nơi mọi người đang ăn uống. Ngh thấy anh A đang ngồi nhổm ở vị trí đối diện cửa nhà, gần giữa hai mâm, mặt quay vào mâm phía trong gần phía nhà bếp. Ngồi ngay sát bên trái anh A là anh Giáp Văn N, sinh năm 1993 (anh N là ruột của S), hai người đang ngồi khoác tay qua vai nói chuyện với nhau. Lúc này, Ngh quan sát thấy một con dao dựa (loại dao thường dùng để băm, chặt) đang dựng ở sát tường đầu hồi bên trái hiên nhà chính, gần chỗ Ngh đang ngồi. Do đang bực tức với anh A nên Nghiệp nảy sinh ý định dùng con dao đó để đánh cảnh cáo A cho đỡ tức. Ngh dùng tay trái với lấy con dao rồi chuyển dao sang cầm ở tay phải, bước xuống sân đi theo mép sân bên trái nhà chính, vòng qua phải ra đứng phía sau anh N và A. D đang đứng trước cửa nhà bếp trông thấy Ngh đi gần đến chỗ anh A đang ngồi. D lo Ngh đi ra sẽ gây sự với A nên chạy vào trong nhà bếp, nhặt một đoạn cành cây củi dài khoảng trên 30cm ở sàn nhà bếp rồi đi ra ngoài mục đích để đề phòng vì ở đó rất đông người, nếu Ngh gây sự sẽ bị mọi người đánh. Khi Ngh ra đến phía sau anh N và A, Ngh dùng tay phải đưa dao lên thấp chém nhẹ vát từ trên xuống dưới, từ phải qua trái hướng vào đầu anh A. Anh Nc phát hiện thấy có người vào đánh A nên theo phản xạ giơ tay lên đỉnh đầu A để đỡ và bị dao chém trúng vào cổ tay trái, mặt trên ngón tay trỏ và mặt trên ngón tay cái bàn tay trái. Ngh tiếp tục chém liên tiếp mấy nhát nhẹ (kiểu ghì dao xuống) vào đầu anh A (vát thuận, vát nghịch) làm anh A ngã ngửa về sau nằm nghiêng phải, co hai gối lên, hai tay đưa lên be đầu và bị Ngh chém trúng vào vị trí khoảng 1/3 dưới mặt ngoài cánh tay trái và trước gối chân trái. Thấy Ngh đánh anh A nên mọi người xung quanh vào can ngăn giữ Ngh lại không cho đánh anh A nữa. Khi mọi người giữ Ngh lại, thì D cũng đi ra đến sân. Mọi người nhìn thấy D cầm trên tay một đoạn cây củi nên xông ra ngăn cản, D dơ đoạn cây lên vụt một nhát về phía anh A nhưng không trúng vào ai thì bị mọi người đẩy D lùi ra xa. Ngay sau đó mọi người đẩy D và Ngh vào ngồi trong nhà rồi báo tin cho Công an xã Đại Lâm đến giải quyết. Anh N và A được mọi người đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang để cấp cứu và điều trị.

Ngày 21/10/2017, ông Ngô Văn D, sinh năm 1972 (bố đẻ anh A) làm đơn đề nghị xử lý đối tượng gây thương tích cho con mình (BL 21).

Sau khi bị Ngh gây thương tích, anh A được mọi người đưa đi cấp cứu. Tại giấy chứng nhận thương tích ban đầu ngày 23/10/2017 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bắc Giang xác định:

Ông Ngô Xuân A vào viện lúc 21 giờ 05 phút, ngày 21 tháng 10 năm2017, tình trạng thương tích lúc vào viện: Bệnh nhân tỉnh; Da niêm mạc hồng; Đau đầu, đau tay; vết thương đỉnh đầu trái kích thước (1x6)cm chảy máu nhiều; Vết thương cánh tay trái kích thước (1x4)cm; Vết thương cổ tay phải kích thước (2x3)cm; vết thương gối trái kích thước 2cm; CT Scannes: SN; Hình ảnh mẻ bản ngoài xương sọ vùng thái dương trái (BL 63).

Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 7978/17/TgT ngày 23/10/2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bắc Giang thể hiện: Tỷ lệ thương tổn của Ngô Xuân Anh do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 15% (Mười lăm phần trăm). Trong đó:

- Thương tích vết đã khâu vùng đỉnh đầu trái + Đọc phim CT sọ não chụp ngày 22/10/2017 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang: Hình ảnh mẻ bản ngoài xương sọ vùng thái dương trái, kích thước ≈ 34mm: 10%.

- Thương tích vết thương đã khâu cánh tay trái: 2%.

- Thương tích vết thương đã khâu cổ tay phải: 2%.

- Thương tích vết thương đã khâu gối trái: 1%.

Vật gây thương tích: Các thương tích do vật sắc nhọn gây nên.” (BL 64, 65).

Ngày 04/01/2018, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung Cơ chế hình thành nên các dấu vết thương tích trên cơ thể của bị hại gửi đến Trung tâm giám định pháp y tỉnh Bắc Giang yêu cầu giám định bổ sung “Bị can sử dụng con dao mà Cơ quan điều tra đã thu giữ để chém bằng sống dao vào cơ thể bị hại có gây nên các thương tích: Vùng đỉnh đầu trái có vết thương dài6,5cm; cánh tay trái có vết thương dài 7,5cm; cổ tay phải có vết thương dài5,5cm; gối trái có vết thương dài 4,5cm” hay không?

Tại bản kết luận giám định bổ sung 8075/18/GĐPY ngày 10/01/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Bắc Giang kết luận: “Bị can sử dụng con dao mà Cơ quan điều tra đã thu giữ được để chém bằng sống dao vào cơ thể không gây được các thương tích: Vết thương vùng đỉnh đầu trái; Vết thương cánh tay trái; Vết thương cổ tay phải; Vết thương gối trái của Ngô Xuân A” (BL 117).

Ngày 06/12/2017, Cơ quan điều tra tiến hành cho Phạm Công Ngh, bị hại và người liên quan thực nghiệm điều tra diễn tả lại hành vi Ngh gây thương tích cho anh A. Kết quả Phạm Công Ngh, bị hại và người có liên quan đã mô tả và diễn thành thục các động tác, phù hợp với lời khai nhận tội của bị can và các tài liệu điều tra khác (BL 28-34).

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Phạm Công Ngh không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra Phạm Công Ngh đều khai báo thành khẩn về hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải; Sau khi gây thương tích cho anh A, Phạm Công Ngh đã chủ động bồithường cho anh A chi phí chữa trị, bồi dưỡng sức khỏe, tiền mất thu nhập, tiền tổn thất tinh thần và các chi phí khác với tổng số tiền là 50.000.000đ. Anh A đã nhân đủ số tiền trên, không có yêu cầu đề nghị gì khác đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho Ngh, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Ngoài ra, Phạm Công Ngh còn có hành vi dùng dao gây thương tích 06%đối với anh Giáp Văn N. Việc Nghiệp gây thương tích cho anh N là ngoài ýmuốn của Nghp. Anh N có đơn đề nghị Cơ quan điều tra không khởi tố, vì vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý hình sự đối với Phạm Công Ngh về hành vi này. Ngày 07/12/2017, Phạm Công Ngh đã bồi thường cho anh N số tiền 3.500.000đ thuốc men điều trị, bồi dưỡng sức khỏe…anh Nđã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu đề nghị gì khác. Để vụ án được giải quyết triệt để, ngày23/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã có Công văn đề nghị Cơ quan điều tra ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Công Ngh về hành vi gây thương tích cho Giáp Văn N. Công an huyện Lạng Giang đã có quyết định xử phạt Phạm Công Ngh.

Đối với Phạm Công D, kết quả điều tra xác định giữa Dg và Ngh không có sự bàn bạc, thống nhất cùng gây thương tích cho anh A, việc Ngh dùng dao gây thương tích cho anh A, D không biết trước. D khai mục đích cầm cây củi ra chỗ Ngh để đề phòng việc Ngh gây sự sẽ bị mọi người đánh. Do vậy, không đủ căn cứ chứng minh hành vi đồng phạm của D. Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Lạng Giang đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với D về hành vi này, Viện kiểm sát thấy như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vật chứng vụ án, trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra thu giữ: 01 con dao, loại dao thường dùng để băm chặt; chuôi dao hình thoi, tròn, dài 13cm,

đường kính 3cm; lưỡi dao dài 31cm, rộng 5cm, có lưỡi sắc, không có đầu nhọn (là dao Ngh đã gây thương tích cho anh A - BL 52), Cơ quan điều tra nhập kho vật chứng và chuyển để giải quyết cùng vụ án..

Về trách nhiệm dân sự: Phạm Công Ngh đã bồi thường cho anh Ngô Xuân A và anh Giáp Văn N, hiện nay không có ai yêu cầu bồi thường, anh Giáp Văn N đã có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự, anh Ngô Xuân A có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Công Ngh đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên

Bản cáo trạng số 14/KSĐT ngày 23/02/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã truy tố bị cáo Phạm Công Ngh về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 điều 134 của Bộ luật hình sự BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểmvà có tính chất côn đồ” theo điểm a,i khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015).

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố vµ tr×nh bµy: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại anh Ngô Xuân A có ý kiến: Sau khi anh bị Ngh chém, Ngh và gia đình có thăm hỏi và tự nguyện bồi thường cho anh số tiền 50.000.000đồng nay anh

không có yêu cầu bồi thường thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người liên quan anh Phạm Công D có ý kiến: Sau khi ở nhà anh Svề thì anh và Ngh có quay lại nhà anh S để gặp anh A, mục đích quay lại chỉ để nói chuyện với A, sau khi vào nhà S thì anh không để ý Ngh làm gì, khi thấy Ngh đi xuống sân nhà S, thì anh có vào bếp nhà S thì anh cầm một cây củi mục đích để phòng vệ, lúc Ngh cầm dao chém anh A thì anh không biết chém như thế nào, lúc mọi người vào can ngăn thì anh mới biết, anh cũng chưa đánh được ai.

Người liên quan ông Giáp Văn X trình bày:Ngày 21/10/2017 ông có tổ chức mấy mâm cơm mời anh em và bạn của con trai ông là S để hôm sau S đi xuất khẩu lao động, sau khi ăn xong thì có sẩy ra đánh nhau ở nhà ông, lúc đó ông đang ở trong nhà sau khị Ngh chém anh A ông mới ở trong nhà chạy ra, con dao anh Ngh chém anh A là dao của nhà ông dùng để chặt củi, nay ông không có ý kiến gì về con dao này đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Người liên quan ông Phạm Công T trình bày: Ông là bố của bị cáo Phạm Công Ngh sau khi Nghiệp chém anh A gia đình ông và anh Ngh có đứng ra bồi thường cho anh A số tiền 50.000.000đồng, trong số tiền nay ông có20.000.000đồng, nay ông không có ý kiến gì về số tiền này và không yêu cầuanh Ngh phải trả lại.

Tại phiên tòa người liên quan anh Giáp văn N, bà Phạm Thị T và toàn bộ những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa Hội đòng xét xử đã công bố lời khai của những người này tại cơ quan điều tra, bị cáo không có ý kiến gì.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang phát biểu lời luận tội đối với bị cáo, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện đồng thời giữ nguyên quyết định truy tố: Đề nghị HĐXX: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Phạm Công Ngh, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Ngh phạm tội cố ý gây thương tích” và đề nghị áp dụng khoản 2 điều 134; khoản 3 điều 7; điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nghị quyết 41/ QH14 ngày 20/6/2017của Quốc hội hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Ngh từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bịbắt thi hành án.

Về vật chứng áp dụng điểm a khoản 2, khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 con dao loại dao thường dùng để băm chặt; chuôi dao hình thoi, tròn, dài 13cm, đường kính 3cm; lưỡi dao dài 31cm, rộng 5cm, có lưỡi sắc, không có đầu nhọn.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; Điều 5, Điều 23 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định./.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đƣợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định nhƣ sau:

1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, tình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

 [2]. Nội dung vụ án: Khoảng 20 giờ 00 ngày 21/10/2017, tại thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bắc Giang, Phạm Công Ngh đã có hành vi dùng 01 con dao, loại dao thường dùng để băm chặt; chuôi dao hình thoi, tròn, dài 13cm, đường kính3cm; lưỡi dao dài 31cm, rộng 5cm, có lưỡi sắc, không có đầu nhọn chém gây thương tích cho anh Ngô Xuân A: Vết thương vùng đỉnh đầu trái; Vết thương cánh tay trái; Vết thương cổ tay phải; Vết thương gối trái. Anh A bị tổn thương15 % sức khỏe.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, kết quả thực nghiệm điều tra, với các kết luận giám định , phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cũng như vật chứng đã thu hồi, phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan, phù hợp với không gian, thời gian, địa điểm xảy ra hành vi phạm tội.

Từ những căn cứ trên, có đủ cơ sở để xác định bị cáo Phạm Công Ngh đã có hành vi gây thương tích cho anh Ngô Xuân A với tỷ lệ tổn thương sức khỏe15%. HĐXX xét thấy Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang truy tố bị cáo theo khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự 1999 với tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm” và “ có tính chất côn đồ” theo điểm a,i khoản 1 điều 134 là đúng pháp luật. Bản cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân huyện L¹ng Giang truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

 [2] Về nhân thân, Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăngnặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 48 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được áp dụng điểm s khoản 1, điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện thăm hỏi, bồi thường cho bị hại. Bị hại và người liên quan có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và xin giảm nhẹ hành phạt cho bị cáo, nên bị cáo được áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuy nhiên khi quyết định mức hình phạt, HĐXX căn cứ vào Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017của Quốc hội hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Công văn 04/TANDTC-PC ngày 09 tháng01 năm 2018 của Tòa án nhân dân Tối cao áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội đối với bị cáo. Qua so sánh giữa khoản 2 Điều 104 BLHS 1999 và khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 thì thấy:

- Đối với quy định về mức hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 134 BLHS 2015 là từ 2-6 năm, nhẹ hơn mức 2-7 năm quy định tại khoản 2 Điều 104 BLHS 1999, có lợi cho bị cáo nên HĐXX áp dụng mức hình phạt quy định tại điểm khoản 2 Điều 134 BLHS 2015.

Từ những đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo Ngh, HĐXX cân nhắc mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo. Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần phảicách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân sống có ích cho xã hội, do bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, thực sự ăn năn hối cải nên được HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Tuy nhiên bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2Điều 51 Bộ luật Hình sự, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, quá trình tại cơ quan điều ra và tại Tòa án bị cao ăn lăn hối cải, hiện nay gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, một mình nuôi con nhỏ, con bị cáo đang mắc bệnh hiểm nghèo,cho nên cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt cũng đủ giáo dục bị cáo thành thành công dân sống có ích cho xã hội.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại và cho anh Giáp Văn N, hiện nay anh Ngô Xuân A và anh Giáp Văn N không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản tiền nào khác, do vậy Hội đồng xétxử không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về vật chứng vụ án: 01 con dao loại dao thường dùng để băm chặt; chuôi dao hình thoi, tròn, dài 13cm, đường kính 3cm; lưỡi dao dài 31cm, rộng 5cm, cólưỡi sắc, không có đầu nhọn (là dao Ngh đã gây thương tích cho anh A). Đây là dao của gia đình ông Giáp Văn X không yêu cầu trả lại nên HĐXX xem xét tích thu tiêu hủy.

 [5] Ngoài ra, Phạm Công Ngh còn có hành vi dùng dao gây thương tích 06% đối với anh Giáp Văn N. Việc Ng higây thương tích cho anh N là ngoài ý muốn của Ngh. Anh Ncó đơn đề nghị Cơ quan điều tra không khởi tố, vì vậy Cơ quan điều tra không đề cập xử lý hình sự đối với Phạm Công Ngh về hành vi này. Ngày 07/12/2017, Phạm Công Ngh đã bồi thường cho anh N số tiền 3.500.000đ thuốc men điều trị, bồi dưỡng sức khỏe, anh N đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu đề nghị gì khác. Để vụ án được giải quyết triệt để, ngày 23/02/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạng Giang đã có Công văn đề nghị Cơ quan điều tra ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Phạm Công Ngh về hành vi gây thương tích cho Giáp Văn N. Công an huyện Lạng Giang đã có quyết định xử phạt Phạm Công Ngh.

Đối với Phạm Công D, kết quả điều tra xác định giữa D và Ngh không có sự bàn bạc, thống nhất cùng gây thương tích cho anh A, việc Ngh dùng dao gây thương tích cho anh A, D không biết trước. D khai mục đích cầm cây củi ra chỗ Ngh để đề phòng việc Ngh gây sự sẽ bị mọi người đánh. Do vậy, không đủ căn cứ chứng minh hành vi đồng phạm của D. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Lạng Giang đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với D về hành vi này, Viện kiểm sát thấy như vậy là phù hợp với quy định của pháp luật.

 [6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phạm Công Nghiệp phạm tội "Cố ý gây thương tích".

Căn cứ khoản 2 điều 134; Điều 7; Điều 38; điểm b,s khoản 1, khoản 2 điều51; khoản 1 Điều 54; Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ các điều 106; Điều 135, 136, Điều 332, 333, 336, 337 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Công Ngh 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt thi hành án.

* Về vật chứng: tịch thu tiêu hủy 01 con dao loại dao thường dùng để băm chặt; chuôi dao hình thoi, tròn, dài 13cm, đường kính 3cm; lưỡi dao dài 31cm, rộng 5cm, có lưỡi sắc, không có đầu nhọn.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Công Ngh phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án xét xử vắng mặt.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tạiĐiều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

334
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 16/2018/HS-ST ngày 29/03/2018 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:16/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về