Bản án 160/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 160/2019/HS-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 148/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 169/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Vi Văn M; tên gọi khác: Không;

Sinh năm 1983 tại xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: bản XT, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: Lớp 02/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Xã DT và bà Vi Thị DT (bố mẹ đều đã chết); có vợ là Lương Thị L và 02 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 15/02/2001 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An kết án 12 tháng tù về các tội “Trộm cắp tài sản” và “Trốn khỏi nơi giam giữ”, chấp hành xong bản án ngày 05/11/2001; Bị bắt từ ngày 15/7/2019 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

2. Họ và tên: Vy May C; tên gọi khác: Không;

Sinh năm 1980 tại xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: bản XT, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An;

Nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn P (đã chết) và bà Vi Thị K; có vợ là Lương Thị X và 02 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 26/12/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An kết án 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong bản án ngày 16/9/2016; Bị bắt từ ngày 15/7/2019 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Lương Thị X, sinh năm 1976; Trú tại: bản XT, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Có mặt

- Người làm chứng: Anh Kha Văn Kh, sinh năm 1994; Trú tại bản Xốp Thạng, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo cáo trạng số 153/CT-VKS-HS ngày 06/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An thì các bị cáo Vi Văn M, Vy May C đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị truy tố theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Vi Văn M và Vy May C đã thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với các tình tiết đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu, cụ thể là: Vào khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 15/7/2019, Vi Văn M đang ở nhà mình thì có Lô Văn T (sinh năm 1988, trú tại bản NC, xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An) đến rủ đi vào bản O, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An để mua ma túy về sử dụng thì Vi Văn M đồng ý. Sau đó Lô Văn T điều khiển xe máy chở Vi Văn M đi vào bản O, xã HL, đến nơi Vi Văn M đưa cho Lô Văn T 20.000 đồng để nhờ mua ma túy, Lô Văn T cầm tiền rồi đi vào trong bản còn Vi Văn M đứng ngoài chờ. Một lúc sau Lô Văn T quay lại và đưa cho Vi Văn M 02 gói heroine được gói bằng giấy có dòng kẻ, Vi Văn M cầm lấy, cất dấu trong người rồi cùng Lô Văn T điều khiển xe máy đi về. Khi cả hai đi về được một đoạn thì gặp Vy May C đang điều khiển xe máy đi một mình nên Vi Văn M xuống xe của Lô Văn T rồi xin đi nhờ xe của Vy May C còn Lô Văn T đi đâu không biết. Khi lên xe của Vy May C thì Vi Văn M đưa cho Vy May C 02 gói heroine đã mua và nói khi nào về nhà sẽ cho Vy May C cùng sử dụng, Vy May C cầm lấy số heroine đó cất dấu vào mũ lưỡi trai mà mình đang đội rồi điều khiển xe máy chở Vi Văn M về.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày khi Vy May C và Vi Văn M đi về đến khu vực bản N, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì bị Tổ công tác của Công an huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong mũ lưỡi trai của Vy May C đang đội 02 gói chất màu trắng (nghi là heroine) được gói bằng giấy có dòng kẻ và một chiếc xe máy nhãn hiệu WIN màu xanh-đen, biển kiểm soát 37Z6-3459. Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vào ngày 17/7/2019 đã xác định: Chất màu trắng (nghi là heroine) trong gói thứ nhất thu giữ của Vy May C và Vi Văn M có khối lượng 0,05 gam (Không phẩy không năm gam); Chất màu trắng (nghi là heroine) trong gói thứ hai thu giữ của Vy May C và Vi Văn M có khối lượng 0,05 gam (Không phẩy không năm gam). Hội đồng niêm phong đã tiến hành trích mẫu để gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 1065/KL-PC09(MT) ngày 20/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: 02 (hai) mẫu chất màu trắng thu giữ của Vi Văn M, Vy May C gửi tới giám định đều là ma tuý (heroine).

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Vi Văn M, Vy May C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vi Văn M mức án từ 13 (Mười ba) đến 16 (Mười sáu) tháng tù, xử phạt bị cáo Vy May C mức án từ 12 (Mười hai) đến 15 (Mười lăm) tháng tù, đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi vi phạm của các bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và các chứng cứ tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã truy tố nên đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 19 giờ, ngày 15/7/2019 tại khu vực bản N, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An các bị cáo Vi Văn M, Vy May C bị bắt quả tang khi đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,1 gam (Không phẩy một gam) heroine nhằm mục đích sử dụng. Vì vậy, hành vi đó của các bị cáo Vi Văn M, Vy May C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung hình phạt là “Hêrôin có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội: Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội các bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, bản thân các bị cáo đều có nhân thân xấu, đều đã từng bị kết án, mặc dù đều đã được xóa án tích nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân để tu dưỡng, rèn luyện mà lại tiếp tục phạm tội, điều đó chứng tỏ các bị cáo có ý thức coi thường pháp luật, hành vi đó đã làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, vì vậy hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung.

[3.1] Đây là vụ án có đồng phạm nên phải phân hóa hành vi của mỗi bị cáo để lên cho mỗi bị cáo một mức án phù hợp với tính chất vai trò của từng bị cáo: Đối với bị cáo Vi Văn M thực hiện tội phạm với vai trò rủ rê, khởi xướng nên giữ vai trò chính và phải chịu mức án cao hơn. Đối với bị cáo Vy May C mặc dù bị rủ rê, lôi kéo nhưng thực hiện tội phạm một cách tích cực nên phải chịu trách nhiệm do hành vi mà mình đã gây ra.

[3.2] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy rằng: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy rằng, các bị cáo là đối tượng nghiện hút, hoàn cảnh gia đình khó khăn, tài sản không có nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo.

[5] Trong vụ án này còn có đối tượng Lô Văn T (sinh năm 1988, trú tại bản NC, xã HK, huyện KS, tỉnh Nghệ An), theo bị cáo Vi Văn M khai thì Lô Văn T là người đã trực tiếp đi mua ma túy cho các bị cáo, tuy nhiên quá trình điều tra Lô Văn T không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ khi nào có kết quả sẽ được xử lý.

[6] Về vật chứng vụ án: Số ma túy heroine đã thu giữ của các bị cáo sau khi trích gửi giám định thì số còn lại là 0,05 gam (Không phẩy không năm gam), đây là vật chứng Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên phải tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu WIN màu xanh-đen, biển kiểm soát 37Z6-3459, quá trình điều tra đã chứng minh được đây là tài sản chung của gia đình bị cáo Vy May C, việc các bị cáo sử dụng xe vào việc phạm tội các thành viên khác trong gia đình không ai biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho đại diện chủ sở hữu là chị Lương Thị X (sinh năm 1976, trú tại bản XT, xã HL, huyện KS, tỉnh Nghệ An, vợ của bị cáo Vy May C) là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Về kháng cáo: Các bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vu liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vi Văn M, Vy May C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Vi Văn M 15 (Mười lăm) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 15/7/2019).

- Xử phạt bị cáo Vy May C 14 (Mười bốn) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 15/7/2019).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) phong bì thư bưu điện được dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của đối tượng Vi Văn M và dấu điểm chỉ của đối tượng Vy May C, bên trong có số ma túy heroine có khối lượng chứa 0,05 (Không phẩy không năm) gam và vỏ giấy niêm phong ban đầu. Vật chứng đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 15 giờ 00 phút, ngày 08/11/2019.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Vi Văn M và Vy May C mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án đối với phần có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 160/2019/HS-ST ngày 25/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:160/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về