Bản án 159/2017/HSST ngày 04/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 159/2017/HSST NGÀY 04/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04/7/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 154/2017/HSST ngày 08/6/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quàng Văn K, tên gọi khác: Không, Sinh năm: 1989, tại Điện Biên.

Trú tại: Bản Púng B, xã Pa T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nơi ĐKHKTT: Bản Púng B, xã Pa T, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Nghề nghiệp: Làm ruộng;

Trình độ văn hoá: 9/12.

Con ông: Quàng Văn N, sinh năm 1953; Con bà: Quàng Thị X, sinh năm 1950.

Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ 03 trong gia đình. Vợ: Nạ Thị N, sinh năm 1990;

Con: Bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2013;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2017, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Quàng Văn K bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 13/3/2017, bị cáo đi từ nhà đến khu vực Cạnh K, thuộc bản Pa T, xã Pa T, huyện Đ với mục đích là mua ma túy về sử dụng. Đến 14 giờ bị cáo gặp và mua được 01 gói hê rô in với giá 800.000đ, của một người đàn ông người Lào khoảng 30 tuổi, không biết tên và địa chỉ. Bị cáo đang trên đường về nhà, khi bị cáo về đến khu vực Púng M, thuộc bản Pa Xa L, xã Pa T thì bị tổ công tác Đồn biên phòng Pa T kết hợp với Công an xã Pa T phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng là một gói hê rô in, hồi 17 giờ cùng ngày.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định trọng lượng ngày 14/3/2017 đã xác định: Số chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo có trọng lượng là 3,55 gam.

Tại bản kết luận giám định số: 324/GĐ – PC54 ngày 07/4/2017, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng được trích từ vật chứng thu giữ của Quàng Văn K gửi giám định là hêrôin.

Tại bản cáo trạng số: 87/QĐ-VKS-HS ngày 07/6/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ đã truy tố bị cáo Quàng Văn K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194/BLHS.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện Đ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194/BLHS, điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS; khoản 1 Điều 249, khoản 3 Điều 7/Bộ luật Hình sự năm 2015, Nghị quyết 109/2015/QH13,điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết 144/2016/QH13. Đề nghị xử phạt bị cáo Quàng Văn K từ 42 đến 48 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 76/BLTTHS về xử lý vật chứng. Miễn toàn bộ án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo tại phiên tòa.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Quàng Văn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội; đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bởi vì ma túy là một hiểm họa của nhân loại, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm khác. Chính vì thế mà Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy. Nếu bị phát hiện Nhà nước sẽ xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma tuý, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Nên cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật.

Hành vi cất giấu 3,55 gam hê rô in của bị cáo, với mục đích để sử dụng. Cho nên, VKSND huyện Đ đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194/BLHS là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.

Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo HĐXX thấy rằng: Bị cáo được đi học đến lớp 9/12 thì nghỉ học, ở nhà. Bị cáo nghiện ma túy từ năm 2005. Ngày 01/4/2008 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nay đã được xóa án tích. Ngày 13/3/2017 bị cáo phạm tội trong vụ án này và bị bắt giam cho đến nay.

Bị cáo có nhân thân không tốt.

Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS; theo điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số: 144/2016/QH13 và Công văn 276/TANDTC-PC ngày 13/9/2016 về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS năm 2015.

Để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 194/BLHS là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có khả năng thi hành. Cho nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Còn đối với người đàn ông theo bị cáo khai đã bán hêrôin cho bị cáo, do bị cáo không biết tên và địa chỉ, nên CQĐT không xác minh làm rõ được.

Vật chứng của vụ án là 3,55 gam hêrôin, gửi giám định toàn bộ, hoàn lại mẫu vật sau khi giám định là 3,52 gam cần bị tịch thu, tiêu huỷ theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 76/BLTTHS.

Bị cáo được miễn toàn bộ án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn K phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46/Bộ luật hình sự; điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số: 144/2016/QH13 của Quốc hội, khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015 xử phạt bị cáo Quàng Văn K 48 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 13/3/2017.

3. Áp dụng: Điểm a khoản 2 Điều 76/Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 3,55 gam hêrôin. Đã trích toàn bộ gửi giám định, hoàn lại mẫu vật sau giám định 3,52 gam .  (Vật chứng đã được công an huyện Đ chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện Đ ngày 15/6/2017).

4. Án phí: Áp dụng Điều 99/BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án miễn toàn bộ án phí HSST cho bị cáo.

5. Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 159/2017/HSST ngày 04/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:159/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về