Bản án 157/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 157/2019/HS-ST NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 156/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 153/2019/QĐXXST-HS ngày 22/10/2019, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn H; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: xx/xx/xxxx, tại M, Điện Biên; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản C, xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn H (đã chết) và bà: Lò Thị V (đã chết); Vợ, con: Chưa; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang ngày 23/8/2019, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ công an thành phố C – Có mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Anh Nguyễn Viết C, anh Nguyễn Thanh B – Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 50 phút ngày 23/8/2019, tại khu vực tổ 106, khu 8, phường C, thành phố C, Công an thành phố C đã bắt quả tang Lò Văn H có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói giấy báo có chữ bên trong có chứa chất bột màu trắng, có khối tổng khối lượng là 0,181 gam ma túy loại heroine và còn thu giữ số tiền 350.000 đồng trong túi quần bên phải phía trước của H đang mặc.

Lò Văn H khai nhận có được số ma túy này là do vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 23/8/2019, do có nhu cầu sử dụng ma túy H đã đi đến khu vực ngõ 63, phố B, phường C, thành phố C mua của người đàn ông không quen biết 02 gói ma túy với giá 400.000 đồng, đang trên đường cầm ma túy về thì bị công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Tại bản kết luận giám định số 697/GĐMT ngày 27/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận:

+ Chất bột màu trắng trong 02 gói giấy báo có chữ thu giữ của Lò Văn H là ma túy, loại heroine, tổng khối lượng 0,181 gam.

Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo Lò Văn H khai nhận về hành vi phạm tội cụ thể như sau: Bị cáo sử dụng ma túy loại heroine từ đầu tháng 6/2019 đến nay, vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 23/8/2019, sau khi đi khám bệnh tại bệnh viện đa khoa khu vực C về thì bị cáo có nhu cầu sử dụng ma túy, bị cáo đi xe ôm đến khu vực ngõ S, phố B, phường C, thành phố C để tìm mua ma túy, tại đây bị cáo đã mua của một người đàn ông không quen biết 02 gói ma túy heroine với giá 400.000 đồng. Sau đó bị cáo đi bộ về, đang cầm ma túy trong tay phải thì bị công an phát hiện bắt giữ, thu 02 gói ma túy heroine và số tiền 350.000 đồng trong túi quần bên phải phía trước, số tiền này là của bị cáo đi lao động mà có, không liên quan đến việc phạm tội. Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không bị oan. Bị cáo thấy ân hận về hành vi phạm tội của mình nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Anh Nguyễn Viết C, Nguyễn Thanh B – là người chứng kiến trong vụ án vắng mặt tại phiên tòa có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: Các anh chứng kiến Công an kiểm tra Lò Văn H, thu tại tay phải của H 02 gói giấy báo có chữ viết mở ra bên trong có chứa chất bột màu trắng, H khai nhận đó là ma túy heroine ngoài ra công an còn thu giữ của H số tiền 350.000 đồng. Công an đã tiến hành lập biên bản và niêm phong số ma túy heroine thu giữ của H theo đúng quy định.

Bản cáo trạng số 156/CT-VKSCP ngày 04/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo Lò Văn H về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Xử phạt:

Lò Văn H từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2019 về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định. Trả lại cho bị cáo Lò Văn H số tiền 350.000 đồng do không liên quan đến việc phạm tội.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lò Văn H không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà Lò Văn H khai nhận về hành vi phạm tội đúng với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 17 giờ 05 phút ngày 23/8/2019; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ cũng như Bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh; Phù hợp với lời khai của những người chứng kiến cùng với các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Lò Văn H đã có hành vi tàng trữ 0,181 gam ma túy loại Heroine vào ngày 23/8/2019 nhằm mục đích sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện của mình nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, do vậy cần chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo.

[3] Bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được tác hại của ma tuý và tính trái pháp luật của việc mua chất ma tuý mang về để sử dụng nhưng vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo không những gây nguy hiểm cho xã hội, vi phạm Luật phòng, chống ma túy mà còn là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Đây là tệ nạn xã hội gây tâm lý bức xúc trong quần chúng nhân dân, để tăng cường biện pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm ma túy trên địa bàn thành phố nói chung cũng như để giáo dục, trừng trị riêng đối với bị cáo thì cần phải có một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử có xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã gây ra, ngoài ra bị cáo còn có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là người dân tộc thiểu số, bố mẹ bị cáo đã chết nên thiếu sự chăm sóc giáo dục của gia đình, sinh ra và lớn lên ở vùng khó khăn, được UBND xã M, huyện M, tỉnh Điện Biên cấp giấy chứng nhận hộ nghèo, cận nghèo nên cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định lại nghiện ma túy, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 phong bì còn nguyên dấu niêm phong số: 697/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh bên trong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định đây là vật nhà nước cấm lưu hành nên tuyên tịch thu tiêu hủy. Cơ quan công an thu giữ của bị cáo số tiền 350.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

Đi với người đàn ông đã bán ma túy cho H, do không có thông tin cụ thể về lý lịch nên không có cơ sở để điều tra làm rõ.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Lò Văn H 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/8/2019;

Căn cứ vào: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì số: 697/GĐMT còn nguyên dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Quảng Ninh bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định.

Trả lại cho bị cáo Lò Văn H: 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) do không liên quan đến việc phạm tội.

Tình trạng vật chứng, tài sản thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 28/BB-THA ngày 04/11/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C, tỉnh Quảng Ninh.

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn H.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 157/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:157/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về