TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T.S, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 156/2019/HS-ST NGÀY 20/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai V án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 163/2019/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa V án ra xét xử số: 155/2019/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:
Trương Văn V, sinh năm 1977; ĐKHKTT: Thôn L.H, xã M.L, huyện Đ.A, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trương C (đã chết) và bà Đào Thị Th sinh năm 1945; Có vợ là Nguyễn Thị T1 sinh năm 1988 và có 02 con lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không;
Nhân thân: Tại bản án số 102 ngày 19/11/2003 của Tòa án nhân dân huyện Đ.A, thành phố Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
Tại bản án số 291 ngày 17/12/2010 của Tòa án nhân dân huyện L.B, thành phố Hà Nội xử phạt 32 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2019 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 22 giờ 00 phút ngày 08/5/2019 tại khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã T.S đã bắt quả tang Trương Văn V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S đã trưng cầu giám định và tại bản kết luận giám định số 426/KLGĐMT-PC09 ngày 09/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong 01 gói bọc ngoài bằng lớp giấy màu trắng có khối lượng 0,1691 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine”.
Với nội dung trên, bản cáo trạng số 146/CT-VKS ngày 19/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã T.S để xét xử bị cáo Trương Văn V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2003. Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 08/5/2019, V đi xe buýt từ huyện Đ.A, thành phố Hà Nội đến xe buýt bệnh viện Đa Khoa thị xã T.S thuộc phường Đ.N để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, sau khi xuống xe V đi bộ vào khu dân cư thuộc khu phố C.D, phường Đ.B gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không quen biết, V hỏi mua 100.000 đồng ma túy người này đồng ý và đưa cho bị cáo gói ma túy Heroine có khối lượng 0,1691 gam. Bị cáo cầm gói ma túy vừa mua đi tìm nơi sử dụng thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập lúc 22 giờ ngày 08/5/2019. Ngoài số ma túy bị thu giữ bị cáo không bị thu giữ gì khác.
Trên cơ sở phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo cũng như xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trương Văn V phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trương Văn V từ 14 đến 17 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 08/5/2019.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy mẫu vật còn lại sau giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung V án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ V án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Lời khai của bị cáo tại tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ V án thể hiện: Vào hồi 22 giờ 00 phút ngày 08/5/2019 tại khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, Trương Văn V đã bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 0,1691 gam chất ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trương Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S đã truy tố.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm hại tới chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội, ảnh hưởng tới sức khỏe con người và là cầu nối của đại dịch HIV. Đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác như giết người, cướp tài sản…. Nên cần phải xử lý nghiêm bị cáo bằng luật hình và áp dụng một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã hai lần bị xét xử về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt và được xóa án nhưng lại tiếp tục tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân. Điều đó chứng tỏ bị cáo là người coi thường pháp luật, khó giáo dục, cải tạo. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. Bố, mẹ của bị cáo là người có công với cách mạng, đã được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất, hạng nhì nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới giúp bị cáo cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy để sử dụng cho bản thân không có mục đích lợi nhuận, bản thân không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Mẫu vật còn lại sau giám định là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Liên quan trong V án còn có người đàn ông đã bán ma túy cho V tại khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình điều tra chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106; Điều 136; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Trương Văn V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”
Xử phạt bị cáo Trương Văn V 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/5/2019.
Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Tịch thu và tiêu hủy: 01 phong bì đựng mẫu vật còn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh (theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 19/8/2019).
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án 156/2019/HS-ST ngày 20/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 156/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về