Bản án 154/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 154/2020/HSST NGÀY 15/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 149/2020/HSST ngày 27/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2020/QĐXXST-HS ngày 24/4/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đức N; giới tính: Nam; tên gọi khác: Không; sinh ngày 21 tháng 8 năm 1976, tại Thái Nguyên; nơi đăng ký HKTT: Tổ 09, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; con ông Trần Đình C và bà Lê Thị H ( đều đã chết); chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 05/6/2018 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian 12 tháng, chấp hành xong ngày 28/6/2019;

Nhân thân: Tại Bản án số 183/2010/HSST ngày 30/6/2010 Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/01/2020 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 19 giờ 40 phút ngày 01/01/2020, tổ công tác của Công an phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tại khu vực đường Thống Nhất thuộc tổ 09, phường T, phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tại túi quần bên trái phía trước đang mặc của Trần Đức N 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, N khai là Heroine mua để sử dụng cho bản thân.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân số chất bột màu trắng thu giữ của N có khối lượng 0,124 gam va lây mâu gửi giam định ký hiêu N.

Tại bản Kết luận giám định số 146/KL-KTHS ngày 09/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Số chất bột màu trắng trong mẫu N gửi giám định là ma tuý, loại Heroine, có khối lượng 0,124 gam.

Tại cơ quan điều tra Trần Đức N khai: Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 01/01/2020, N đi bộ từ nhà ra cổng Bệnh viện L thuộc tổ 09, phường T, thành phố Thái Nguyên bắt xe ôm đi đến khu vực cổng phụ trường Đại học K thuộc phường T, thành phố Thái Nguyên để tìm mua ma túy sử dụng. N gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng với giá 100.000 đồng. N cất giấu gói ma túy vào trong túi quần bên trái phía trước đang mặc, sau đó bắt xe ôm về nhà để sử dụng. Khi đi đến khu vực đường Thống Nhất, thuộc tổ 09, phường T, N xuống xe ôm đi bộ về nhà thì bị tổ công tác Công an phường T phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.

Vật chứng của vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu N (bên trong có chứa ma túy). Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

Tại bản cáo trạng số 161/CT-VKSTPTN ngày 27/3/2020, VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Trần Đức N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Trần Đức N khai nhận rõ hành vi phạm tội như lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên bản cáo trạng số 161/CT-VKSTPTN ngày 27/3/2020, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Đức N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

- Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Trần Đức N từ 18 đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bi cáo; tịch thu tiêu hủy vật chứng.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật.

Về hành vi phạm tội của bị cáo:

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Đức N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, vật chứng thu được, Kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; đó là:…

c) Heroine ...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”

[3] Bản cáo trạng số 161/CT-VKSTPTN ngày 27/3/2020 VKSND thành phố Thái Nguyên truy tố Trần Đức N theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[4] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

[5] Đối chiếu với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[6] Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: bị cáo là người nghiện, không có tài sản, thu nhập, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng: cần tịch thu, tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định niêm phong ký hiệu N.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

1/ Xử phạt Trần Đức N 18 (mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 01/01/2020.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Quyết định tạm giam bị cáo Trần Đức N 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. 3/ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng: tịch thu, tiêu hủy 01 bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu N, bên trong chứa chất ma túy, mặt sau phong bì có 02 dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên có chữ ký của Trương Đăng Tam.

Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 339 ngày 25/3/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

4/Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/UBTVQ14 về án phí, lệ phí: buộc bị cáo Trần Đức N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2020/HSST ngày 15/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:154/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về