TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 154/2019/HS-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 153/2019/TLST-HS ngày 15/11/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 153/2019/QĐXXST-HS ngày 18/11/2019 đối với bị cáo:
Lò Văn D, sinh ngày 14 tháng 02 năm 2000 tại xã N, thành phố S, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã N, thành phố S, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn B và bà Lò Thị L; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/10/2019 đến nay. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ 20 phút ngày 10/10/2019, tổ công tác Công an phường S phối hợp với Công an xã N làm nhiệm vụ tại khu vực bản K, xã N, thành phố S phát hiện, bắt quả tang Lò Văn D có hành vi cất giữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói giấy nilon màu trắng, bên trong chứa 06 viên nén màu hồng hình tròn đồng dạng do D tự giác lấy trong túi quần đang mặc ra giao nộp và khai là hồng phiến của D để sử dụng. Lò Văn D khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 10/10/2019, D đi taxi từ nhà ở bản P, xã N, thành phố S, tỉnh Sơn La đến khu vực tổ 4, phường S, thành phố S tìm mua ma túy sử dụng. D gặp và mua được của một nam giới không quen biết 06 viên hồng phiến với số tiền 600.000 đồng.
D cất gói ma túy vừa mua được vào túi quần rồi đi taxi đến khu vực bản Ka Láp, xã N. D xuống xe đi bộ để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.
Ngày 10/10/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La thành lập Hội đông bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại. Kết quả cân tịnh: 06 viên nén đồng dạng hình tròn, màu hồng có khối lượng 0,59 gam; lấy 03 viên = 0,29 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu D1. Còn lại 03 viên = 0,3 gam lưu kho, ký hiệu D2.
Kết luận giám định số 1565 ngày 14/10/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận: Mẫu giám định kí hiệu D1 là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,29 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,59 gam, loại Methamphetamine.
Đối với người bán ma túy cho Lò Văn D: Do D không biết họ tên, địa chỉ, ngoài lời khai của D không có tài liệu, chứng cứ nào khác để điều tra, xử lý.
Bản cáo trạng số 174/CT-VKSTP ngày 14/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S truy tố Lò Văn D về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sơn La giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Tuyên bố: Lò Văn D phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt Lò Văn D từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong. Mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn D - Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 10/10/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu kho D2 = 0,3 gam”.
3. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, nhất trí với cáo trạng truy tố và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về quá trình tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Xét lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; vật chứng đã thu giữ; biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiến. Có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 10/10/2019, Lò Văn D đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 0,59 gam Methamphetamine để sử dụng. Hành vi của bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố S truy tố bị cáo về tội danh, điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, thuộc loại tội phạm nghiêm trọng. Bị cáo nhận thức rõ hành vi vi phạm của mình nhưng vẫn thực hiện. Cần xử phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[3] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản, không có thu nhập ổn định, xét không áp dụng hình phạt bổ sung.
[4] Về vật chứng của vụ án, căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu kho D2; xét là chất ma túy và đồ vật liên quan, vật không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu huỷ.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn D phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".
Xử phạt Lò Văn D 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 10/10/2019).
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với Lò Văn D.
2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì viền xanh đỏ đã niêm phong; mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng lưu kho vụ Lò Văn D. Tàng trữ trái phép chất ma túy. Bắt ngày 10/10/2019. Gồm: 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đã bóc mở; 01 mảnh nilon màu trắng; mẫu lưu kho D2 = 0,3 gam”; mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có 01 dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố S và 06 chữ ký, 06 họ tên của thành phần tham gia niêm phong, đối tượng bị bắt, kiểm tra niêm phong còn nguyên vẹn.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/11/2019 giữa Công an thành phố Sơn La và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sơn La).
3. Về án phí:
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Lò Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 154/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 154/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sơn La - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về