Bản án 154/2018/HNGĐ-ST ngày 22/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 154/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 615/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T; địa chỉ: Thôn 2, xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

Bị đơn: Anh Vũ Tiến Đ; địa chỉ: Khu Q, thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng; có măt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 8 năm 2018 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh Vũ Tiến Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện vào năm 2014, đến năm 2016 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng (Giấy chứng nhận kết hôn số 30 ngày 05 tháng 5 năm 2016). Sau khi cưới, vợ chồng về sinh sống cùng với gia đình anh Đ tại thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống hòa thuận được hai năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Mặt khác, do có mâu thuẫn với gia đình nhà chồng nên chị T đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 7 năm 2017 cho đến nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị Tâm đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn anh Đ .

- Về con chung: Chị T và anh Đ có 01 con chung tên là Vũ Thị Hoài T, sinh ngày 26 tháng 05 năm 2016. Hiện nay con đang ở cùng với chị T.  Khi ly hôn chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con. Về cấp dưỡng nuôi con chung để hai bên tự thỏa thuận giao nhận với nhau, chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị T và anh Đ không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại văn bản ghi ý kiến ngày 10 tháng 09 năm 2018 và các lời khai tại Tòa án, bị đơn là anh Vũ Tiến Đ trình bày: Anh Đ công nhận lời trình bày của chị T về điều kiện, thời gian và nơi đăng ký kết hôn là đúng. Anh Đ trình bầy vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, nguyên nhân mà chị T bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở là do chị T và em chồng không hợp nhau, chị T yêu cầu ra ở riêng nhưng anh Đ không đồng ý dẫn đến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị T về nhà bố mẹ ở, vợ chồng ly thân từ thời gian đó đến nay. Chị T có đơn xin ly hôn, anh Đ cho rằng vẫn còn tình cảm nên không đồng ý ly hôn. Về con chung: Anh Đ trình bầy trường hợp vợ chồng phải ly hôn, anh đề nghị chị T tiếp tục nuôi con, anh có quyền thăm nom con. Về tài sản chung: Anh Đ trình bầy vợ chồng không có tài sản chung.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn, bị đơn chấp hành đúng pháp luật. Tòa án đã xác định đúng thẩm quyền giải quyền vụ án, xác định đúng quan hệ pháp luật và những người tham gia tố tụng. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội; chấp nhận yêu cầu xin ly hôn và nuôi con chung của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Chị Nguyễn Thị T và anh Vũ Tiến Đ đều thống nhất về điều kiện kết hôn, thời gian kết hôn và có một con chung như đã trình bày và phù hợp với bản sao giấy đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh của con chung mà chị T đã giao nộp cho Tòa án. Tài liệu xác minh tại địa phương thể hiện vợ chồng chị T và anh Đ có mâu thuẫn và đã sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng khó có khả năng đoàn tụ. Anh Đ và chị T đều có đủ điều kiện nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Vũ Tiến Đ cư trú tại thị trấn M, huyện T , thành phố Hải Phòng. Căn cứ Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có thẩm quyền xét xử vụ án này.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh Đ đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 30 ngày 05 tháng 5 năm 2016 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện T, thành phố Hải Phòng). Căn cứ vào lời khai của các đương sự, tài liệu điều tra xác minh đã xác định được mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Thời gian vợ chồng sống ly thân đã lâu, hiện nay mỗi người sống một nơi, chị T kiên quyết xin ly hôn vì tình cảm vợ chồng không còn. Do đó, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị T được ly hôn anh Đ .

[3]. Về con chung: Chị T và anh Đ có một con chung tên là Vũ Thị Hoài T sinh ngày 26 tháng 5 năm 2016. Chị T có nguyện vọng nuôi con. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, chị T đang trực tiếp nuôi con chung dưới ba mươi sáu tháng tuổi, chị T có đủ điều kiện nuôi con . Vì vậy, tiếp tục giao cho chị T trực tiếp nuôi con chung là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T và anh Đ tự thỏa thuận với nhau, không đề nghị Tòa án giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị T và anh Đ không có tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết tài sản nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 35, Điều 39, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Vũ Tiến Đ .

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi con chung là Vũ Thị Hoài T , sinh ngày 26 tháng 5 năm 2016 cho đến khi con đủ mười tám tuổi và có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009348 ngày 27 tháng 8 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 154/2018/HNGĐ-ST ngày 22/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:154/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về