Bản án 153/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 153/2018/HNGĐ-ST NGÀY 18/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 18 tháng 10 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 303/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2018 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 172/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 122/2018/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị C, sinh năm 1980; Địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh T; Vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Đình L, sinh năm 1972; Địa chỉ: Thôn B, xã G, huyện T, thành phố H; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 02 tháng 4 năm 2018 cùng các lời khai tại Toà án nhân dân huyện T, chị Nguyễn Thị C (nguyên đơn) trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị C và anh Vũ Đình L kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, tự do tìm hiểu, được tổ chức lễ cưới theo phong tục địa Luận, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện T, thành phố H theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01 ngày 22 tháng 02 năm 2006. Chị C và anh L sau khi cưới về sinh sống tại thôn B, xã G, huyện T, thành phố H cùng gia đình anh L. Quá trình chung sống đến tháng 02 năm 2008 vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, lối sống dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau. Mâu thuẫn ngày càng trở nên sâu sắc, trầm trọng. Nên đến tháng 6 năm 2008 chị C bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại huyện T, tỉnh T sống ly thân tới nay, không ai quan tâm gì đến nhau. Khi mâu thuẫn xảy ra, gia đình hai bên đã tiến hành hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành, nay chị C nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trở lên trầm trọng, sâu sắc, tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Vũ Đình L.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị C và anh Vũ Đình L có 01 con chung tên Vũ Đình N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2007. Khi ly hôn chị đề nghị được nuôi con chung tên Vũ Đình N. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị đề nghị để chị và anh L tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị C trình bày chị và anh L không có tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Chị Nguyễn Thị C đã nộp cho Tòa án: Bản sao: Giấy kết hôn số 01 ngày 22 tháng 02 năm 2006; Giấy khai sinh của con chung; Chứng minh nhân dân; Sổ hộ khẩu để chứng minh cho yêu cầu của mình. Anh Vũ Đình L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo kết quả về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và kết quả xác minh số 61/TB-TA ngày 07/9/2018 nhưng không có ý kiến, quan điểm gì đối với các tài liệu, chứng cứ có trong Hồ sơ vụ án.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị C vẫn giữ nguyên yêu cầu như đã trình bày trong đơn khởi kiện, bản tự khai và không bổ sung gì thêm.

Bị đơn là anh Vũ Đình L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự song đến ngày mở phiên tòa, anh Vũ Đình L vẫn không trình bày thêm ý kiến gì về việc chị Nguyễn Thị C xin ly hôn.

Tại các biên bản xác minh ngày 08/8/2018 và biên bản lấy lời khai của người làm chứng ngày 08/8/2018 thể hiện quá trình kết hôn, chung sống, quá trình mâu thuẫn, ly thân, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, sâu sắc không thể hàn gắn tình cảm, hòa giải đoàn tụ được và về con chung như chị C đã trình bày.

Trong vụ án này: Lời trình bày của chị Nguyễn Thị C về quan hệ hôn nhân, con chung và lý do đề nghị Tòa án giải quyết các quan hệ đó phù hợp với các chứng cứ, tài liệu mà chị giao nộp, phù hợp với tài liệu do Tòa án thu thập được, anh L không có ý kiến gì nên đó là sự thật và thuộc trường hợp không phải chứng minh; Quan hệ tài sản, công nợ chung phát sinh từ quan hệ hôn nhân, chị C trình bày không có và không yêu cầu giải quyết, anh L không có ý kiến gì nên không đặt vấn đề phải chứng minh.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật và về việc giải quyết vụ án như sau: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Bị đơn đã không chấp hành đúng quy định của pháp luật kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải quyết cho chị Nguyễn Thị Chung và anh Vũ Đình Luận được ly hôn. Về con chung: Chị C và anh L có 01 con chung tên Vũ Đình N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2007, đề nghị Hội đồng xét xử giao cho chị C được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Vũ Đình N. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị C trình bày để chị và anh L tự thỏa thuận giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về tài sản chung: Chị C trình bày không có tài sản chung và không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết trong vụ án này. Chị Nguyễn Thị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án Ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H. Chị C và anh L được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa, đã đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong quá trình giải quyết vụ án theo quy định pháp luật. Chị C vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh L đã được triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do; Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị C và anh L.

[2] Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị C và anh Vũ Đình L được xác lập vào năm 2006 là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến tháng 02 năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn, mâu thuẫn trở nên căng thẳng, trầm trọng dẫn đến việc vợ chồng sống ly thân từ tháng 06 năm 2008 đến nay. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, lối sống dẫn tới vợ chồng thường xuyên xảy ra bất đồng, cãi mắng lẫn nhau, hôn nhân giữa các bên đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn sâu sắc đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ vợ chồng không còn nên chị Nguyễn Thị C xin ly hôn với anh Vũ Đình L. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị C với anh Vũ Đình L.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị C và anh Vũ Đình L có 01 con chung tên Vũ Đình N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2007. Khi ly hôn chị C có nguyện vọng nhận nuôi con chung. Quá trình điều tra xác minh chị C có điều kiện, khả năng và thời gian để chăm sóc con chung, con chung Vũ Đình N từ khi ly thân vẫn được chị C trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng khỏe mạnh, bình thường và có nguyện vọng được ở với mẹ nên cần áp dụng Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung tên Vũ Đình N cho chị C trực tiếp nuôi dưỡng. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị C trình bày để tự thỏa thuận và anh L không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị C và anh Vũ Đình L không có yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị C và anh Vũ Đình L.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Vũ Đình N sinh ngày 21 tháng 01 năm 2007 cho chị Nguyễn Thị C trực tiếp nuôi dưỡng. Việc trực tiếp nuôi con chung được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

2.2. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị C trình bày để tự thỏa thuận giải quyết, anh Vũ Đình L không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị C và anh Vũ Đình L không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị C phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị C đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H tại Biên lai số 0008966 ngày 07 tháng 5 năm 2018; Chị Nguyễn Thị C đã nộp đủ án phí.

Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị C, anh Vũ Đình L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2018/HNGĐ-ST ngày 18/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:153/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về