Bản án 153/2017/HSST ngày 12/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TĨNH GIA, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 153/2017/HSST NGÀY 12/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12/12/2017, tại hội trường xét xử TAND huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 165/2017/HSST ngày 07/11/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Trung H - Sinh ngày: 25/4/1991; Nơi ĐKHKTT: Phố 2, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Chỗ ở hiện nay: Phố 2, phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Kỹ sư giám sát thi công; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn C - Sinh năm: 1964 và con bà: Trịnh Thị Q - Sinh năm: 1961; Có vợ là: Nguyễn Đỗ L - Sinh năm: 1993; Có một con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ kể từ ngày 27/9/2017 đến ngày 30/9/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn: "Cấm đi khỏi nơi cư trú". Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Nguyên đơn dân sự: Tổ hợp nhà thầu J (Thầu chính thực hiện gói thầu EPC dự án liên hiệp lọc dầu N tại khu kinh tế N).

Địa chỉ: Xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự (theo Giấy ủy quyền ngày 26/9/2017 và Giấy ủy quyền ngày 05/10/2017):

Ông Bùi Quang H1 - Sinh năm: 1983

Nơi ĐKHKTT: Tổ 2 khu 5, phường M, TP. C, tỉnh Quảng Ninh

Nơi ở hiện nay: Khu cư xá J xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Trung H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Nguyễn Trung H là Kỹ sư giám sát thi công của Tổng thầu J liên hợp lọc hóa dầu N thuộc xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hoá. Hàng ngày Nguyễn Trung H đến Công ty để làm việc bình thường và mang một ba lô vải màu đen, loại ba lô đeo lưng và đi vào văn phòng Instrument, khu Văn phòng J để thay đồ đi làm và để ba lô tại đây để đi làm bình thường. Đến khoảng 12h00’ ngày 10/9/2017 sau khi ăn cơm trưa xong, Nguyễn Trung H về phòng nghỉ trong khu văn phòng J đối diện với phòng Instrument, thấy không có người trông coi, phòng Instrument mở cửa, H đi sang phòng Instrument quan sát thấy và lấy 03 cây máy tính nhãn hiệu DELL bỏ vào ba lô để nguyên chỗ cũ rồi quay về phòng nghỉ trưa rồi đi làm việc bình thường. Đến chiều sau khi tan ca, H về phòng Instrument lấy ba lô và tài sản đã trộm cắp được mang lên xe buýt của Công ty ra về ký túc xá tổng thầu J để cất giấu tài sản trộm cắp được vào tủ cá nhân.

Đến ngày 20/9/2017 Nguyễn Trung H lại có hành vi trộm cắp tương tự như trên tại văn phòng Instrument, khu Văn phòng J được 01 màn hình máy tính nhãn hiệu DELL mang về bỏ vào tủ quần áo cá nhân cất giấu cùng với 03 cây máy tính đã trộm cắp được vào ngày 10/9/2017, đến ngày 27/9/2017 đã đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Tĩnh Gia đầu thú và giao nộp toàn bộ tài sản mà H đã trộm cắp.

Tại Biên bản định giá tài sản ngày 29/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản huyện T định giá 03 cây máy tính nhãn hiệu DELL Optilex 3020 Core i5 giá trị còn lại là: 29.400.000đ (Hai mươi chín triệu bốn trăm nghìn đồng) và 01 màn hình máy tính nhãn hiệu DELL E2014 giá trị còn lại là: 2.200.000đ (Hai triệu hai trăm nghìn đồng). Tổng giá trị tài sản là: 31.600.000đ (Ba mươi mốt triệu sáu trăm nghìn đồng) .

Về phần dân sự và vật chứng của vụ án:

Bị cáo Nguyễn Trung H đã đem toàn bộ tài sản trộm cắp được gồm có: 03 cây máy tính nhãn hiệu DELL Optilex 3020 Core i5; 01 màn hình máy tính nhãn hiệu DELL E2014 đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Tĩnh Gia để giao nộp. Cơ quan CSĐT Công an huyện Tĩnh Gia đã Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là đơn vị tổ hợp nhà thầu J thi công nhà máy lọc hóa dầu N thuộc xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (anh Bùi Quang H1 - người đại diện theo ủy quyền đã nhận lại tài sản). Tổ hợp nhà thầu J thi công nhà máy lọc hóa dầu N đã nhận lại đủ tài sản và không có yêu cầu gì thêm.

Chiếc ba lô vải màu đen loại túi đeo có hai quai phía sau Nguyễn Trung H dùng để trộm cắp đã Quyết định chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Tĩnh Gia.

Bản cáo trạng số 163/CT-VKS ngày 06/11/2017 của VKSND huyện Tĩnh Gia đã truy tố Nguyễn Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự 1999..

Tại phiên tòa VKS đề nghị:

- Áp dụng: Khoản 1 Điều 138; điểm b, p, q khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 60 BLHS năm 1999 đối với bị cáo Nguyễn Trung H.

- Mức hình phạt mà VKS đề nghị xử phạt đối với Nguyễn Trung H từ 15 đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

+ Cơ quan CSĐT đã thu giữ tài sản mà H trộm cắp và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là đơn vị tổ hợp nhà thầu J thi công nhà máy lọc hóa dầu N thuộc xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (anh Bùi Quang H1 - người đại diện theo ủy quyền đã nhận lại tài sản). Tổ hợp nhà thầu J thi công nhà máy lọc hóa dầu N đã nhận lại đủ tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên đề nghị HĐXX không xem xét.

+ Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc ba lô vải màu đen loại túi đeo có hai quai phía sau, Nguyễn Trung H dùng để trộm cắp.

- Trách nhiệm chịu án phí đối với bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của KSV, bị cáo,

XÉT THẤY

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Trung H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với tang vật vụ án, phù hợp với lời khai người làm chứng và phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà hôm nay. Có đủ căn cứ để khẳng định VKSND huyện Tĩnh Gia truy tố bị cáo Nguyễn Trung H về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng pháp luật.

Đại diện VKSND huyện Tĩnh Gia thực hành quyền công tố tại phiên toà hôm nay vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Trung H phạm tội “Trộm căp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS là chính xác.

* Xét tính chất vụ án: Bị cáo là người có đủ năng lực về mọi mặt để nhận thức được “Trộm cắp tài sản” là hành vi vi phạm pháp luật và là tội phạm. Song vì do tham lam muốn có được nhiều tiền nên bị cáo đã bất chấp pháp luật. Với hành vi đã thực hiện và hậu quả đã gây ra đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLHS.

Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác mà còn làm ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử buộc phải chịu một hình phạt là cần thiết. Vì vậy cần phải có đường lối xử lý tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra, cũng như giáo dục riêng và phòng ngừa chung

* Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với bị cáo, HĐXX thấy rằng:

Tiền án, tiền sự: Không; quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; ngay sau khi phạm tội biết hành vi của mình là sai và vi phạm pháp luật nên bị cáo đã chủ động đến cơ quan CSĐT công an huyện Tĩnh Gia để đầu thú về hành vi phạm tội của mình, đồng thời giao nộp toàn bộ tài sản trộm cắp.

Trong quá trình điều tra bị cáo đã tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm: Cung cấp thông tin nơi lẩn trốn của đối tượng Trần Thế T - Sinh năm 1990; HKTT: Thôn N, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; đang có quyết định truy nã về tội "Cố ý gây thương tích". Sau khi tiếp nhận các thông tin nói trên, cơ quan CSĐT Công an huyện Tĩnh Gia đã tiến hành xác minh và bắt được đối tượng Trần Thế T. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, p, q khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS. Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS vì phạm tội nhiều lần.

Cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ và tình tiết tăng nặng, với nhân thân của bị cáo như trên, hơn nữa bị cáo có lai lịch rõ ràng, có nơi cư trú ổn định. Xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng phù hợp với Điều 60 BLHS cũng như thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, mở đường cho bị cáo hướng tới tương lai để tu dưỡng rèn luyện mình trở thành người công dân lương thiện.

* Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Cơ quan CSĐT đã thu gi÷ tài sản mà H trộm cắp và trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là đơn vị tổ hợp nhà thầu J thi công nhà máy lọc hóa dầu N thuộc xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa (anh Bùi Quang H1 - người đại diện theo ủy quyền đã nhận lại tài sản). Tổ hợp nhà thầu J thi công nhà máy lọc hóa dầu N đã nhận lại đủ tài sản và không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

- Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc ba lô vải màu đen loại túi đeo có hai quai phía sau, Nguyễn Trung H dùng để trộm cắp.

* Đối với hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 138 BLHS: "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng...". Tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo khai sau khi phạm tội bị cáo bị công ty cho nghỉ việc, hiện tại không có việc làm nên không có thu nhập. Do đó HĐXX quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

* Án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trung H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng:  Khoản 1 Điều 138; điểm b, p, q khoản 1 và khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 60 BLHS.

- Xử phạt:  Nguyễn Trung H 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Trung H về UBND phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa nơi bị cáo cư trú để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách của án treo. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

- Về xử lý vật chứng:  Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc ba lô vải màu đen loại túi đeo có hai quai phía sau mà Nguyễn Trung H đã dùng để trộm cắp.

(Theo phiếu nhập kho số NK 2018/17 ngày 08/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa).

- Án phí: Áp dụng Điều 99; 231; 234 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; mục 1 phần I Danh mục án phí, lệ phí Tòa án - Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Nguyễn Trung H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự tại phiên tòa. Tuyên bố bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

419
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 153/2017/HSST ngày 12/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:153/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tĩnh Gia (cũ) - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về