Bản án 15/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TH PHỐ SÔNG CÔNG, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 23/04/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 4 năm 2020, tại trụ sởTòa án nhân dân Th phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/ 2020/ TLST - HS ngày 23 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/ 2020/ QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Cao Dương Th, sinh ngày 05 tháng 6 năm 1991, tại: S – Thái Nguyên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xóm T2, xã T, Thành phố S, tỉnh Thái Nguyên. Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Cao Duy Luật và bà Trịnh Thị Oanh; bị cáo chưa có vợ, con. Tiền sự: không; tiền án: có 01 tiền án: bản án số 165/2018/HSST ngày 20/4/2018, Tòa án nhân dân Th phố Thái Nguyên xét xử bị cáo Th 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; nhân thân: Năm 2013, bị cáo Th bị Tòa án nhân dân Th phố Thái Nguyên xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/12/2019 cho đến nay, hiện đang giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên đến nay (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Cao Duy L, sinh năm 1969;

trú tại: xóm T2, xã T, Th phố S, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

- Người chứng kiến: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1975; địa chỉ: xóm 6, xã S, Thành phố T, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 15 giờ 45 phút ngày 17/12/2019, tại khu vực Nhà nghỉ Sông Công 2 - thuộc tổ dân phố Trước, phường Lương Sơn, Th phố Sông Công. Công an Th phố Sông Công bắt quả tang, thu giữ trên tay trái Cao Dương Th 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu White Horse, bên trong có 01 túi nilon chứa các hạt tinh thể màu trắng và tại túi quần sau bên trái Th đang mặc 01 túi nilon chứa 22 viên nén màu hồng, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng; ngoài ra còn thu giữ của Th 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J2 Prime màu vàng (bút lục 31-32).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Cao Dương Th khai: Th là người nghiện chất ma túy. Khoảng 20 giờ ngày 15/12/2019, Th đi đến khu vực ngã tư Khu công nghiệp Sông Công để mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tới nơi, Th gặp một người đàn ông tên Toản (Th không rõ họ, tên đệm, tuổi và địa chỉ) hỏi mua 4.000.000 đồng ma túy “đá” và 25 viên ma túy “ngựa” với giá 2.000.000 đồng.

Tại đây, Th đưa cho Toản 6.000.000 đồng, Toản đưa cho Th 01 túi nilon bên trong chứa ma túy “đá” màu trắng và 01 túi nilon bên trong chứa 25 viên ma túy dạng nén màu hồng. Th cất túi nilon ma túy viên nén vào túi quần và cho túi nilon bên trong có các hạt tinh thể màu trắng vào 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu White horse. Sau khi mua được số ma túy trên, Th đã sử dụng hết 03 viên ma túy màu hồng, số ma túy còn lại Th cất giấu trong người để sử dụng dần. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 17/12/2019, Th đang tìm nơi sử dụng ma túy, khi đến khu vực nhà nghỉ Sông Công 2 thì bị Công an Th phố Sông Công kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.

Tại Kết luận giám định số 41/ KL-KTHS ngày 25/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: các viên nén màu hồng và số hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Th là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng lần lượt là 2,338 gam và 9,496 gam (bút lục 37).

Về vật chứng và đồ vật liên quan trong vụ án: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J2 Prime, quá trình điều tra xác định là của ông Cao Duy Luật (bố đẻ bị cáo Th), ông Luật không biết Th lấy sử dụng, Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại cho ông Luật. 01 bì niêm phong, ký hiệu (T1), bên trong chứa 2,232 gam chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong, kí hiệu (T2), bên trong chứa 9,331 gam chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu White horse đã được chuyển bảo quản theo quy định về quản lý vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 16/ CT – VKSSC - TN ngày 20/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Th phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo Cao Dương Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Th về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Th từ 06 đến 07 năm tù, miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; về vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của Th còn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu White horse; về án phí: buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo Th không có ý kiến tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Th phố Sông Công, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Th phố Sông Công, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại giai đoạn điều tra và phiên tòa, bị cáo Th đã khai nhận toàn bộ hành vi, diễn biến nội dung sự việc đúng như nội dung kết luận điều tra và cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người chứng kiến,biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở xác định: Hồi 15 giờ 45 phút ngày 17/12/2019, tại khu vực nhà nghỉ Sông Công 2, thuộc tổ dân phố Trước, phường Lương Sơn, Th phố Sông Công, Cao Dương Th đang tàng trữ trái phép 11.838 gam chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị Công an Th phố Sông Công bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Th đã đủ yếu tố cấu Th tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy”, Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự. Nội dung điều luật quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

g) …, Methamphetamine, …có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất ma tuý, gây mất trật tự an toàn xã hội.

Nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân, bị cáo Th sinh ra, lớn lên tại địa phương, được gia đình nuôi ăn học hết lớp 9/12, sau đó lao động tự do cho đến nay. Năm 2013, bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân Th phố Thái Nguyên xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Hiện bị cáo đang có 01 tiền án, năm 2018 bị Tòa án nhân dân Th phố Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Th được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là Th khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất của vụ án, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Đây là vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, số lượng ma túy bị cáo tàng trữ ở mức cao, nên cần xét xử bằng án phạt tù nghiêm khắc, buộc bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Mức án phạt tù Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ. Hội đồng xét xử cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, để xét xử bị cáo mức án phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Th mua ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân, nên xét không cần thiết áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về nguồn gốc ma túy, Th khai mua của người nam giới tên là Toản (Th khai không biết lai lịch, địa chỉ) tại ngã tư khu công nghiệp Sông Công. Đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý theo quy định pháp luật.

[3] Về vật chứng của vụ án: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J2 Prime, chủ sở hữu là ông Cao Duy Luật, ông Luật không biết bị cáo Th lấy và sử dụng, Cơ quan điều tra đã trả lại điện thoại cho ông Luật là đúng pháp luật. Số ma túy thu giữ của bị cáo Th còn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu White horse là vật Nhà nước cấm tàng trữ và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu, tiêu hủy.

[4] Về án phí: Bị cáo Th bị kết án, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: Các Điều 106, 136, 331 và 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí, Lệ phí; Nghị quyết số 326/ 2016/ NQ – UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Cao Dương Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng: Điểm g khoản 2 điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Cao Dương Th 07 (bẩy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 12 năm 2019.

* Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Cao Dương Th.

3. Về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Cao Dương Th 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo cho việc thi hành án.

4. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Tch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong, ký hiệu (T1), bên trong chứa 2,232 gam chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 bì niêm phong, ký hiệu (T2), bên trong chứa 9,331 gam chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu White horse.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/ 3/ 2020 giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự Th phố Sông Công).

5. Về án phí: Buộc bị cáo Cao Dương Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào Ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo Cao Dương Th, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Cao Duy Luật. Báo cho bị cáo Th biết, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; ông Luật được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 23/04/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sông Công - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về