Bản án 15/2020/HS-ST ngày 11/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 11/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2020/TLST-HS ngày 01/4/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HS ngày 13/5/2020 đối với bị cáo: Trần Mạnh T, sinh ngày 08 tháng 3 năm 1992 tại Quảng Bình; Nơi cư trú: Khu phố 5, phường Ba Đ, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn S và bà Từ Thị T; có vợ là Phan Thị Thu T và 01 người con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 18/8/2007 có hành vi trộm cắp tài sản bị công an huyện Quảng Trạch xử phạt hành chính; Ngày 08/12/2010 có hành vi gây rối trật tự công cộng bị công an huyện Quảng Trạch xử phạt hành chính; Ngày 17/3/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2019 cho đến nay. Theo lệnh trích xuất, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Anh Trần Văn M, sinh năm 1993, nơi cư trú: Khu phố 3, phường Ba Đ, thị xã Ba Đ, tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên khoảng 16 giờ ngày 27/12/2019, Trần Mạnh T gọi điện thoại cho anh Trần Văn M là lái xe của hãng Taxi “Tiên Sa” đến tại Khu phố 3, phường Ba Đ, thị xã Ba Đ chở T vào thành phố Đồng H để mua ma túy. Sau đó, anh M đến và chở T vào đến khu vực Trạm cân thuộc phường Bắc L, thành phố Đồng H thì T nói với anh Mi dừng xe đợi, còn T xuống xe rồi đi bộ khoảng 100m đến tìm gặp một người đàn ông tên là K, khoảng 30 tuổi làm nghề chạy xe ôm, không rõ địa chỉ cụ thể rồi hỏi mua được từ người này 02 gói ma túy loại Heroine với giá 10.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T đem cất vào trong túi áo khoác bên phải đang mặc rồi quay lại vị trí xe taxi đang đợi và bảo anh M chở mình về lại thị xã Ba Đ. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, khi anh M chở T về đến khu vực trục đường gần nhà ở của T tại khu phố 5, phường Ba Đ thì T xuống khỏi xe và đang đi vào nhà thì bị lực lượng Công an thị xã Ba Đồn kiểm tra, phát hiện số ma túy và tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Ti bản kết luận giám định số 35/GĐ-PC 09 ngày 02 tháng 01 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình kết luận 02 gói chất màu trắng thu giữ trên người Trần Mạnh T là: “Chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 14,615g (mười bốn phẩy sáu trăm mười lăm gam). Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự: 09, Danh mục I, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.” Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã thu giữ: 01 túi nilon màu trong suốt và 01 gói giấy màu bạc bên trong đều có chứa chất tinh thể màu trắng, nghi là chất ma túy. Sau giám định đã được niêm phong bằng một phong bì thư dán kín, có số 35/GĐ-PC09 ngày 02 tháng 01 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ghi “mẫu kí hiệu A”, bên trong chứa 14,088 gam chất ma túy Heroine; đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu xám, có gắn thẻ sim số 0912468466; Số IMEL 1:

357161092646867; số IMEL 2: 357162092646865, máy đã qua sử dụng; 01 vỏ lọ nước cất bằng thủy tinh, đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm, đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG là tài sản hợp pháp, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Trần Mạnh T.

Ti bản Cáo trạng số 13/CT-VKSTXBĐ ngày 30 tháng 3 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình đã truy tố bị cáo Trần Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Trần Mạnh T từ 05 năm đến 06 năm tù.

Ti phiên tòa, bị cáo Trần Mạnh T nhất trí như nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố và phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, đồng thời xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn, Điều tra viên, cơ quan Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hay khiếu nại gì.

[2] Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Mạnh T đều thừa nhận: Ngày 27 tháng 12 năm 2019 bị cáo đã tàng trữ 14,615 gam chất ma túy Heroine mục đích để sử dụng. Xét thấy diễn biến hành vi phạm tội mà bị cáo khai nhận tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa; loại ma túy bị cáo tàng trữ là Heroine khối lượng 14,615 gam nằm trong danh mục các chất ma túy, số thứ tự: 09, Danh mục I, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.” Vì vậy, quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đối với bị cáo là có cơ sở. Như vậy, đã có đủ căn cứ để Hội đồng xét xử kết luận: bị cáo Trần Mạnh T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến các quy định của Nhà nước trong việc quản lý, kiểm soát các chất kích thích, gây nghiện, gây hoang mang, lo sợ cho người dân trên địa bàn. Bị cáo biết việc tàng trữ ma túy là hành vi bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện, mặt khác bị cáo là người có nhân thân không tốt. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật hình sự, nhằm đảm bảo răn đe, giáo dục và mang tính phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[5] Về hình phạt: Xét thấy hành vi của bị cáo ở mức độ nghiêm trọng, bị cáo có nhân thân không tốt nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và giáo dục chung.

[6] Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư dán kín, có số 35/GĐ-PC09 ngày 02 tháng 01 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ghi “mẫu kí hiệu A”, bên trong chứa 14,088 gam chất ma túy Heroine được hoàn trả sau giám định; 01 vỏ lọ nước cất bằng thủy tinh, đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm, đã qua sử dụng.

Đi với 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG, màu xám, có gắn thẻ sim số 0912468466; Số IMEL 1: 357161092646867; số IMEL 2: 357162092646865, máy đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp, không liên quan đến hành vi phạm tội, nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho Trần Mạnh Tùng. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Trong vụ án này, có đối tượng người đàn ông tên K đã bán ma túy cho Tùng, do không xác định được tên tuổi thật và địa chỉ cụ thể, nên Cơ quan Công an thị xã Ba Đồn đang lập hồ sơ theo dõi, khi nào có kết quả thì xử lý sau. Đối với anh Trần Văn M, lái xe taxi cho hãng “Tiên Sa” đã chở T vào thành phố Đồng H nhưng do không biết việc T đã mua ma túy và cất giấu trong người nên không có cơ sở để xử lý về hành vi đồng phạm, Cơ quan điều tra đã tiến hành nhắc nhở, giáo dục, răn đe.

[8] Về án phí: bị cáo Trần Mạnh T phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử, phạt bị cáo Trần Mạnh T 05(năm) năm 06(sáu) tháng tù.

Thời hạn tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (28/12/2019).

Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Mạnh T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư dán kín, có số 35/GĐ-PC09 ngày 02 tháng 01 năm 2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, ghi “mẫu kí hiệu A”, bên trong chứa 14,088 gam chất ma túy Heroine; 01 vỏ lọ nước cất bằng thủy tinh, đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm, đã qua sử dụng.

(Tất cả có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an thị xã Ba Đồn và Chi cục thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn ngày 31/3/2020).

4. Về án phí: Bị cáo Trần Mạnh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

622
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2020/HS-ST ngày 11/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về