Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 25/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 25 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 176/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2018 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2019/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Thôn N (T10 cũ), xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Huyền V, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn N (T10 cũ), xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 20/12/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là anh Nguyễn Văn T trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là chị Nguyễn Thị Huyền V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa ngày 29/01/2011. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị V thường xuyên bỏ nhà đi chơi, bỏ bê gia đình. Đến tháng 5 năm 2016, chị V bỏ nhà đi đến nay không có tin tức gì, anh T đã hỏi thăm bạn bè, người thân nhưng không ai biết chị V đi đâu, làm gì. Anh T cũng đã đề nghị Toà án thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú đối với chị V. Tuy nhiên, đã hết thời hạn thông báo mà chị V vẫn không quay về địa phương. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh T đề nghị Toà án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Huyền V.

Về con chung: Anh Nguyễn Văn T khai, vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Nguyễn Như N, sinh ngày 25/11/2011 và cháu Nguyễn Tùng L, sinh ngày 14/7/2013, hiện cháu Nguyệt và cháu L đang ở với anh T. Anh T đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu N và L, không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

Về tài sản: Anh Nguyễn Văn T không yêu cầu Tòa án giải quyết. 

Toà án đã tống đạt hợp lệ, triệu tập chị V đến Toà án để viết bản tự khai nhưng chị V không có mặt mà không có lý do nên không có bản khai của chị V.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Anh T đề nghị Toà án giải quyết cho ly hôn với chị V và được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu N và L, không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Huyền V đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên hoà giải nhưng chị V không có mặt nên không tiến hành hoà giải được vụ án. Chị V cũng được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt, anh T vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị V và anh T là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T và chị Nguyễn Thị Huyền V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn, theo anh T là do chị V thường xuyên bỏ nhà đi chơi, không quan tâm đến gia đình, sau đó đến tháng 5 năm 2016 thì bỏ đi khỏi nơi cư trú cho đến nay không có tin tức gì. Theo biên bản xác minh ngày 11/3/2019 có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã H, vợ chồng anh T, chị V sau khi kết hôn thì sinh sống tại xã H, vợ chồng hòa thuận đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị V bỏ bê gia đình, thường xuyên đi chơi, đến tháng 5/2016 chị V bỏ đi khỏi địa phương, không trở về nữa, hiện tại chính quyền địa phương không biết chị V đi đâu, làm gì. Anh T cũng đã yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm chị V trở về để giải quyết ly hôn và được Tòa án chấp nhận. Đã hết thời gian thông báo nhưng chị V vẫn không trở về. Như vậy, cuộc sống vợ chồng giữa anh T và chị V đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giải quyết cho anh T và chị V ly hôn là phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh Nguyễn Văn T khai vợ chồng có hai con chung, các cháu tên là Nguyễn Như N, sinh ngày 25/11/2011 và cháu Nguyễn Tùng L, sinh ngày 14/7/2013. Anh T cũng xuất trình cho Tòa án giấy khai sinh của các cháu, trong đó xác định cháu N và cháu L là con chung của anh T, chị V. Mặt khác, các cháu được sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu N và cháu L là con chung của anh T, chị V. Từ khi chị V bỏ đi khỏi nơi cư trú đến nay, các cháu do anh T nuôi dưỡng. Cháu N cũng có nguyện vọng được ở với anh T. Hiện tại, chị V cũng không có mặt tại địa phương nên giao các cháu N và L cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T về việc không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh.

[4]. Về tài sản: Anh T không yêu cầu Toà án giải quyết, nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân theo quy định của pháp luật.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1, Điều 56; Điều 81; 82; 83; khoản 1, Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 6; khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn T và chị Nguyễn Thị Huyền V.

2. Về con chung: Công nhận cháu Nguyễn Như N, sinh ngày 25/11/2011 và cháu Nguyễn Tùng L, sinh ngày 14/7/2013 là con chung của anh T và chị V. Giao cháu N và cháu L cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T về việc không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh T. Chị V có quyền đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Văn T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) anh T đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2017/0000283 ngày 20/12/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung. Anh T đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Anh T, chị V có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 25/07/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về