Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 20/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 15/2019/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 20 tháng 5 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 38/2019/TLST-HNGĐ ngày 27/02/2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2019/QĐST-HNGĐ ngày 13/5/2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị V, sinh năm: 1977

ĐKHKTT: Số nhà 15, ngõ 24, đường , tổ 19, phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở: Số nhà 296, đường L, tổ 21, phường L, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Phạm Quang H, sinh năm: 1971

ĐKHKTT và chỗ ở: Số nhà 15, ngõ 24, đường , tổ 19, phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình.

(Các đương sự vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*) Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/12/2018, lời khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình, thì nguyên đơn là chị Hoàng Thị V trình bày và có yêu cầu cụ thể như sau:

Chị và anh Phạm Quang H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn ngày 28/01/2013, tại UBND phường K, thành phố B, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi chửi nhau, không tôn trọng nhau, nhiều lần chị bị anh H đánh. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn kinh tế và tính cách không hòa hợp. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên đến tháng 6/2018 chị và con đã ra ngoài thuê nhà ở, vợ chồng cũng ly thân từ đó và không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn anh Phạm Quang H.

Chị và anh H có 01 con chung là Phạm Hoàng Nhật L, sinh ngày 05/7/2014, con đang ở cùng chị. Ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Hoàng Nhật L, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị đang sản xuất và kinh doanh mặt hàng áo đi mưa, thu nhập bình quân hàng tháng khoảng 10.000.000 đồng, chị có chỗ ở. Vì vậy chị có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con.

Chị và anh H không có tài sản chung. Không nợ ai tài sản gì, không có tài sản cho người khác vay. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

*) Bị đơn là anh Phạm Quang H trình bày:

Về điều kiện kết hôn, mâu thuẫn vợ chồng và nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn như chị V trình bày là đúng. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 6/2018 đến nay, chị V và con đã ra ngoài thuê nhà ở. Anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ nên anh đồng ý ly hôn.

Anh và chị V có 01 con chung là Phạm Hoàng Nhật L, sinh ngày 05/7/2014, con đang ở cùng chị V. Ly hôn, anh đồng ý để chị V được trực tiếp nuôi dưỡng con, anh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh và chị V không có tài sản chung. Không nợ ai tài sản gì, không có tài sản cho người khác vay. Không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ các đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa nH nguyên đơn là chị Hoàng Thị V có đơn xin xử vắng mặt, bị đơn là anh Phạm Quang H vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Vì vậy, áp dụng điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án xét xử trong trường hợp vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Hôn nhân giữa chị Hoàng Thị V và anh Phạm Quang H được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn, thường xuyên cãi chửi nhau, không tôn trọng nhau, nhiều lần chị V bị anh H đánh. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, trong làm ăn kinh tế và tính cách không hòa hợp. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị V và anh H đã ly thân từ tháng 6/2018 đến nay, không quan tâm, chăm sóc nhau. Tòa án đã tiến hành phiên hòa giải để vợ chồng hàn gắn tình cảm, đoàn tụ cùng nuôi dạy con cái nH anh H không có mặt thể hiện Vệc anh H không có thiện chí đoàn tụ. Như vậy, mâu thuẫn giữa chị V và anh H ngày càng căng thẳng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó cần áp dụng điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Hoàng Thị V được ly hôn anh Phạm Quang H là phù hợp.

[3] Về nuôi con chung: Chị V và anh H có 01 con chung là Phạm Hoàng Nhật L, sinh ngày 05/7/2014, con đang ở cùng chị V. Ly hôn, chị V đề nghị được trực tiếp nuôi con Phạm Hoàng Nhật L, không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con, anh H đồng ý, chị V trình bày khả năng, điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con. Hội đồng xét xử thấy chị V có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con chung, đảm bảo về mọi mặt cho con. Vì vậy, cần giao con Phạm Hoàng Nhật L cho chị Hoàng Thị V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại các điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị V không yêu cầu anh H cấp dưỡng cho con nên không đặt ra giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị V và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị V phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

[6] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Căn cứ nhận xét trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 147; 203; 235; 238; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điều 26; điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị V được ly hôn anh Phạm Quang H.

2. Về nuôi con chung: Xử giao con Phạm Hoàng Nhật L, sinh ngày 05/7/2014 cho chị Hoàng Thị V trực tiếp nuôi dưỡng, không đặt ra giải quyết về Vệc cấp dưỡng nuôi con.

Chị V và anh H có quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng cho con khi cần thiết.

3. Về tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hoàng Thị V phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, chuyển số tiền 300.000 đồng chị V đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu tạm ứng án phí số 0007472 ngày 26/02/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình thành án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2019/HNGĐ-ST ngày 20/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:15/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về