Bản án 15/2017/HSST ngày 29/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ - TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 15/2017/HSST NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V H, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 18/2017/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2017/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

Hà Tiến T; tên gọi khác: Hà Văn T; sinh năm 1989, tại huyện M Ch, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Tiểu khu Ch Đ, thị trấn Nông trường M Ch, huyện M Ch, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn Th (đã chết) và bà Hà Thị H, sinh năm 1972; có vợ là Hà Thị X, sinh năm 1994 (đã ly hôn); tiền án: Tại bản án số 25/2015 /HSST ngày 19/11/2015 của Tòa án nhân dân huyện M Ch, tỉnh Sơn La xử phạt bị cáo Hà Tiến T (tên gọi khác Hà Văn T) 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/8/2015 (chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 27 tháng 9 năm 2017 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 27/9/2017 Hà Tiến T đi bộ từ nhà đến bản Ch Đ 1, xã V H, huyện V H, tỉnh Sơn La tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến đường dân sinh bản Ch Đ 1, T đã gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết 20 viên nén màu hồng được gói bằng nilon màu đen với giá 1.000.000 đồng. Sau đó T cầm gói viên nén màu hồng ở tay trái, rồi đi bộ về nhà, trên đường đi về bị tổ công tác Công an huyện V H kiểm tra, phát hiện bắt giữ.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon màu đen bên trong đựng 20 viên nén màu hồng có ký hiệu WY.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành cân tịnh, xác định trọng lượng số viên nén màu hồng thu giữ của Hà Tiến T có trọng lượng 1,90 gam, lấy 0,96 gam làm mẫu giám định ký hiệu “T1” trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định chất ma túy, loại chất ma túy.

Tại kết luận giám đinh số: 922/KLMT ngày 02/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã kết luận:“Mẫu gửi giám đinh ký hiệu “T1” là chất ma túy; loại chất Methamphetamine; trọng lượng của mẫu gửi giám định là 0,96 gam. Trọng lượng chất ma túy thu giữ là 1,90 gam, loại chất Methamphetamine”.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên, bị cáo mua ma túy và cất giấu ma túy mục đích là để sử dụng cho bản thân vì bị cáo mắc nghiện ma túy.

Tại bản cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 10/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V H, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Hà Tiến T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát huyện V H giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung cáo trạng; qua phân tích, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015: Xử phạt bị cáo Hà Tiến T từ 18 (mười tám) tháng tù đến 24 (hai mươi tư) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hà Tiến T.

Về vật chứng đề nghị áp dụng các điểm a, đ khoản 2, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 0,94 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện V H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố Hà Tiến T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Hà Tiến T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện V H, tỉnh Sơn La lập hồi 17 giờ 20 phút ngày 27/9/2017, biên bản niêm phong vật chứng do Công an huyện V H, tỉnh Sơn La lập hồi 18 giờ 25 phút ngày 27/9/2017, bản kết luận giám định số 922/KLMT ngày 02/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, lời khai của người làm chứng chị Nguyễn Kim A, sinh năm 1991, trú tại: Tiểu khu S89, thị trấn Nông Trường M Ch, huyện M Ch, tỉnh Sơn La cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Ngày 27/9/2017, bị cáo Hà Tiến T đã có hành vi tàng trữ 1,90 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân. Trên cơ sở đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Hà Tiến T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự quy định.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình tàng trữ ma túy để sử dụng. Vì vậy, phải xử lý nghiêm khắc cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới tương xứng mức độ phạm tội của bị cáo, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 19/11/2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện M Ch, tỉnh Sơn La xử phạt 30 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, thời hạn tù tính từ ngày 12/8/2015. Ngày 16/9/2017 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương (quá trình chấp hành án bị cáo được giảm thời hạn chấp hành án). Nay bị cáo phạm tội do cố ý chưa được xóa án tích nên là tái phạm được quy định tại khoản 1 Điều 49 Bộ luật Hình sự, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

Điều 194 Bộ luật Hình Sự năm 1999 quy định:
 
1. “ Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 quy định :

1. “ Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”.

a)......;

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetaminne, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Như vậy, mức hình phạt đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 nhẹ hơn khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự 1999.

Căn cứ khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Bị cáo Hà Tiến T đang bị tạm giam, Hội đồng xét xử thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo Hà Tiến T còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có tài sản có giá trị, không có thu nhập, không đủ điều kiện và khả năng thi hành, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Hà Tiến T mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết tại đường dân sinh của bản Ch Đ 1, xã V H, huyện V H nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh điều tra. Buộc Hà Tiến T phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về số ma túy đã bị thu giữ.

[4] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 0,94 gam Methamphetamine cùng vỏ gói niêm phong ban đầu là những vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hà Tiến T (tên gọi khác: Hà Văn T) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” .

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015:

Xử phạt bị cáo Hà Tiến T (Hà Văn T) 20 (hai mươi) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/9/2017 (là ngày bị bắt tạm giam, giữ đối với bị cáo).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng các điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu để tiêu hủy: 01 phong bì đã được niêm phong bên trong đựng 0,94 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 15/2017/HSST ngày 29/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:15/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về