TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 151/2021/HSST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 158/2021/TLST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2021/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2021; Đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Đình P, sinh năm 1964, tại Hà Nội; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Số 1 ngõ 46 đường G, phường G, quận H, Hà Nội; Chỗ ở: Số 101 ngõ 46 đường G, phường G, quận H, quận H, Thành Phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Đình Thùy (đã chết) và bà Trần Thị Kíp (đã chết); Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ tư; Vợ: Nguyễn Thị Thanh Hà, sinh năm 1966, có hai con, con lớn sinh năm 1990 con nhỏ sinh năm 2000; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 83 do Công an quận H lập ngày 14/12/2020;
Bị cáo tại ngoại, hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt.
2/ Nguyễn Đình C, sinh năm 1966, tại Hà Nội; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Tổ 18, phường M, quận H, Hà Nội; Chỗ ở: Số 16 ngõ 139 Tam Trinh, phường M, quận H, Thành Phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Đình Bảng (đã chết) và bà Vương Thị Phiên, sinh năm 1935; Gia đình có hai chị em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Nguyễn Thị Thanh Hương, sinh năm 1970; có hai con, con lớn sinh năm 1994, con nhỏ sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 84 do Công an quận H lập ngày 14/12/2020;
Bị cáo tại ngoại, hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt.
3/ Nguyễn Văn T, sinh năm 1961, tại Hà Nội; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Số 14 ngõ 59 Bùi Ngọc Dương, phường B, quận H, Thành Phố Hà Nội; Chỗ ở: Số 61 đường Lĩnh nam, phường M, quận H, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn văn Nuôi (đã chết) và bà Nguyễn Thị Còn, sinh năm 1935; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư; Có vợ: Nguyễn Thị Kim Dung, sinh năm 1964; có 04 con, con lớn sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 85 do Công an quận H lập ngày 14/12/2020; Bị cáo tại ngoại, hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt.
4/ Nguyễn Đình T, sinh năm 1972, tại Hà Nội; Giới tính: Nam; ĐKHKTT: Số 6, khu tập thể nhà máy Cơ khí Mai Động, phường M, quận H, Hà Nội; Chỗ ở: Số 27 ngõ 45 phố Mai Động, tổ 10, phường M, Hoàng Mai, Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 8/12; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Đình Quang (đã chết) và bà Trương Thị Gái (đã chết); Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ tư; Có vợ: Nguyễn Thị Mai, sinh năm 1976; có 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 86 do Công an quận H lập ngày 14/12/2020;
Bị cáo tại ngoại, hiện đang áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
[1] Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố:
Khoảng 16 giờ 45 ngày 14/10/2020 tại đình Mơ Táo, số 1 ngõ 139 Tam Trinh, Mai Động, Hoàng Mai, Hà Nội tổ công tác Công an phường M bắt quả tang 04 đối tượng gồm Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T đang có hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh “chắn” sát phạt nhau bằng tiền.
Tại cơ quan điều tra, các đối tượng khai nhận: Khoảng 14 giờ 00 ngày 14/10/2020, Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T gặp nhau tại đình Mơ Táo, số 1 ngõ 139 Tam Trinh, phường M, quận H, Hà Nội và rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh chắn sát phạt nhau bằng tiền với mức xuông 20.000 đồng, dịch 10.000 đồng. Các đối tượng lấy 01 đĩa sứ và 01 bộ bài chắn gồm 100 quân có sẵn trong đình và bắt đầu chơi. Chơi đến khoảng 16 giờ 45 phút cùng ngày thì bị cơ quan Công an bắt quả tang.
* Tang vật thu giữ: 01 bộ bài chắn 100 quân, 01 đĩa sứ và tổng số tiền là 12.560.000 đồng, trong đó thu dưới chiếu là 4.520.000 đồng, thu giữ trên người các đối tượng là 8.040.000 đồng.
Số tiền các bị can sử dụng để đánh bạc cụ thể như sau:
Nguyễn Đình P khai nhận: Trước khi đánh bạc, P mang theo số tiền khoảng 2.300.000 đồng, P bỏ ra khoảng 1.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc chỗ P ngồi số tiền 1.660.000 đồng, trong túi áo ngực số tiền 1.300.000 đồng. P đang T số tiền 660.000 đồng. Nếu thua hết số tiền 1.660.000 đồng trên chiếu bạc thì P sẽ bỏ nốt 1.300.000 đồng trong túi ra để đánh bạc.
Nguyễn Đình C khai: Trước khi đánh bạc, C mang theo số tiền khoảng 2.500.000 đồng. C bỏ toàn bộ số tiền trên ra để đánh bạc, khi bị bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc chỗ C ngồi số tiền 1.350.000 đồng. C đang thua số tiền khoảng 1.150.000 đồng.
Nguyễn Văn T khai: Trước khi đánh bạc, T mang theo số tiền 4.700.000 đồng, T bỏ ra 800.000 đồng để đánh bạc, 3.900.000 đồng để lại trong túi áo ngực. Khi bị bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc chỗ T ngồi số tiền 880.000 đồng, T đang T số tiền 80.000 đồng. Nếu thua hết số tiền 880.000 đồng tại chiếu bạc thì T tiếp tục bỏ ra thêm 200.000 đồng từ số tiền 3.900.000 đồng để tiếp tục chơi, số tiền còn lại không dùng để đánh bạc, nếu chơi thua hết số tiền 200.000 đồng thì T nghỉ không chơi nữa.
Nguyễn Đình T khai: Trước khi đánh bạc, T mang theo số tiền 2.840.000 đồng, T bỏ toàn bộ số tiền trên ra để đánh bạc. Khi bị bắt quả tang, thu giữ tại chiếu bạc chỗ T ngồi số tiền 630.000 đồng, trên người số tiền 2.840.000 đồng. T đang T số tiền 630.000 đồng.
Tổng số tiền P, C, T, T sử dụng để đánh bạc là 8.860.000 đồng (Tám triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng). Các đối tượng khai nhận đây là lần đầu tiên đánh bạc tại địa chỉ trên, việc đánh bạc không có ai đứng ra tổ chức, thu hồ thu phế.
Tại bản cáo trạng số 144/CT-VKS-HM, ngày 19/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; [2] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên nắm quyền công tố tại phiên tòa, giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T như bản cáo trạng. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hồi đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo:
- Nguyễn Đình P từ 06 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 20 tháng.
- Nguyễn Đình C từ 06 tháng đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng.
- Nguyễn Văn T từ 06 tháng đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng.
Nguyễn Đình T từ 08 tháng đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng.
- Miễn phạt tiền cho các bị cáo.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài chắn gồm 100 quân bài, 01 đĩa sứ đường kính khoảng 20cm;
Theo phiếu nhập kho vật chứng tại Chi cục thi hành án dân sự quận H, Thành phố Hà Nội số NK2021 – 00205 ngày 26/4/2021 - Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 8.860.000đ (Tám triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng); đã nộp tài khoản Chi cục thi hành án dân sự quận H.
Trả lại bị cáo T số tiền 3.700.000đ Theo giấy nộp tiền ngày 21/10/2020 vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự quân Hoàng Mai tại kho bạc nhà nước quận H.
[3] Phần tranh luận tại phiên tòa: Các bị cáo thừa nhận Kiểm sát viên luận tội đối với hành vi phạm tội của mình là đúng người đúng tội, đúng pháp luật, nên không có tranh luận với Kiểm sát viên.
[4] Lời nói sau cùng: Các bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Xét về hành vi vi phạm bị truy tố:
Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của các bị cáo thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, cũng như tại biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ tài liệu đồ vật; vật chứng thu được của vụ án, cùng các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 16 giờ 45 ngày 14/10/2020 tại đình Mơ Táo, số 1 ngõ 139 Tam Trinh, phường M, quận H, Hà Nội, các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T đang đánh bạc dưới hình thức đánh chắn ăn tiền với mức xuông 20.000 đồng, dịch 10.000 đồng thì bị tổ công tác tổ công tác Công an phường M, quận H phát hiện bắt quả tang, tang vật thu giữ: 01 bộ bài chắn 100 quân, 01 đĩa sứ và tổng số tiền là 12.560.000 đồng, trong đó có 8.860.000đ tiền các bị cáo dùng để đánh bạc.
Các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy hành vi đánh bạc dưới hình thức đánh chắn nhằm mục đích được thua bằng tiền, với tổng số tiền 8.860.000đ của các bị đã đủ yếu tố cấu thành phạm tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn trên là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
Xét hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T là nguy hiểm cho xã hội, Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm tới trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an xã hội, làm gia tăng tệ nạn cờ bạc, là tệ nạn xã hội đang có chiều hướng gia tăng, ảnh hưởng tới kinh tế và hạnh phúc của nhiều gia đình, đồng thời còn là nguồn gốc phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Vì vậy cần phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, mới có tác dụng đảm bảo công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm.
Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T không có tình tiết tăng nặng TNHS.
Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng cho nên cần coi đây là những tình tiết giảm nhẹ được áp dụng tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Hội đồng xét xử xét thấy: Trong vụ án này, các bị cáo cùng rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh chắn như vậy các bị cáo có vai trò như nhau là đồng phạm giản đơn, tuy nhiên căn cứ vào số tiền các bị cáo mang ra để đánh bạc thì bị cáo T có vị trí, vai trò thứ nhất; bị cáo C và P có vị trí vai trò thứ hai, bị cáo T có vị trí vai trò thứ ba.
Xét các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T là người có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Bản thân các bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, số tiền đánh bạc không lớn. Do vậy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách. Giao các bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú và gia đình các bị cáo giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.
Ngoài hình phạt chính các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử, xét các bị cáo không có thu nhập hoặc tài sản riêng, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự.
[4]. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Đối với 01 bộ bài chắn gồm 100 quân bài, 01 đĩa sứ đường kính khoảng 20cm là tang vật của vụ án và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; Theo phiếu nhập kho vật chứng tại Chi cục thi hành án dân sự quận H, Thành phố Hà Nội số NK2021 – 00205 ngày 26/4/2021 - Đối với số tiền 8.860.000đ các bị cáo dùng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
- Đối với số tiền 3.700.000đ tiền mặt thu giữ của bị cáo T là số tiền không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần tuyên trả cho bị cáo T.
[5]. Các vấn đề khác: Không xét.
[6] Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Căn cứ vào Điều 89; 135, 136, 331, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1.Xử phạt:
- Bị cáo Nguyễn Đình T 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, thời gian tính kể từ ngày tuyên án về tội “Đánh bạc”.
- Bị cáo Nguyễn Đình P 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (Mười sáu) tháng, thời gian tính kể từ ngày tuyên án về tội “Đánh bạc”.
- Bị cáo Nguyễn Đình C 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (Mười sáu) tháng, thời gian tính kể từ ngày tuyên án về tội “Đánh bạc”.
- Bị cáo Nguyễn Văn T 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng, thời gian tính kể từ ngày tuyên án về tội “Đánh bạc”.
Giao bị cáo Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T, Nguyễn Đình C cho Ủy ban nhân dân phường M, quận H, Thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Giao bị cáo Nguyễn Đình P cho Ủy ban nhân dân phường G, quận H, Thành phố Hà Nội để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
“Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự”.
2. Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T;
3. Biện pháp tư pháp:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ bài chắn gồm 100 quân bài, 01 đĩa sứ đường kính khoảng 20cm;
Theo phiếu nhập kho vật chứng tại Chi cục thi hành án dân sự quận H, Thành phố Hà Nội số NK2021 – 00205 ngày 26/4/2021 - Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 8.860.000đ (Tám triệu tám trăm sáu mươi nghìn đồng) Trả lại bị cáo T số tiền 3.700.000đ (Ba triệu bảy trăm nghìn đồng) Theo giấy nộp tiền ngày 21/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quân Hoàng Mai tại kho bạc nhà nước quận H.
4.Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đình P, Nguyễn Đình C, Nguyễn Văn T, Nguyễn Đình T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;
5.Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 151/2021/HSST ngày 25/05/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 151/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về