Bản án 149/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 149/2019/HS-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 125/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 159/2019/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Trọng H, sinh năm 1988 tại tỉnh Nghệ An; thường trú: Xóm 14, xã L, huyện A, tỉnh Nghệ An; tạm trú: 52/96/3 khu phố B, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; con ông Phạm Trọng N, sinh năm 1961 và bà Trần Thị K, sinh năm 1963; bị cáo có 03 người em ruột, lớn sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 1996; có vợ Trần Thị D, sinh năm 1994; tiền án: Bản án số 15/2011/HSST ngày 29/3/2011 Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Nghệ An xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 29/4/2012; bản án số 273/2012/HSST ngày 14/11/2012 Tòa án nhân dân quận C, thành phố Hà Nội xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 18/01/2014; Bản án số 305/2014/HSST ngày 11/9/2014 Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An xử phạt 30 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, bị cáo đã chấp hành án phí, chấp hành xong hình phạt ngày 25/7/2016 nhưng chưa bồi thường thiệt hại về trách nhiệm dân sự cho người bị hại; tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 12/01/2019 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983 tại Hà Nội; thường trú: Xóm 1, xã M, huyện C, thành phố Hà Nội; chỗ ở: 22/5 KDC M, khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Nguyễn Thị S, sinh năm 1981; thường trú: Xóm 1, xã M, huyện C, thành phố Hà Nội; chỗ ở: 7/5C khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Thanh T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 00 ngày 12/01/2019, Phạm Trọng H mang sẵn trong túi quần 01 cây đoản bẻ khóa bằng kim loại hình chữ “T” dùng để mở khóa mô tô. Phạm Trọng H bắt xe Grab chạy từ nhà trọ thuộc khu phố B, phường A, thị xã D đến ngã tư Mỹ Phước Tân Vạn thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương thì xuống xe, tiếp tục đi bộ vào khu dân cư P thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương để tìm tài sản chiếm đoạt.

Vào khoảng 11 giờ 00 cùng ngày, Phạm Trọng H đi bộ đến trước nhà phân phối bánh kẹo “P” thuộc lô số 2, khu dân cư P, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, nhìn thấy xe mô tô màu đỏ đen hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 61C1-219.69 của anh Nguyễn Văn Trào để trước hành lang. Phạm Trọng H tiếp cận xe, dùng cây đoản mở khóa xe thì đèn xe sáng lên. Sau đó, Phạm Trọng H nổ máy xe chạy về hướng cổng khu công nghiệp T thì bị anh Nguyễn Thanh T đã theo dõi và truy đuổi. Khi đến đường L thuộc khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, anh Nguyễn Thanh T chặn đầu xe của Phạm Trọng H rồi truy hô cùng người dân khống chế bắt giữ Phạm Trọng H cùng tang vật.

Vật chứng thu giữ, xử lý vật chứng: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 61C1-21969 màu đỏ đen; 01 cây đoản bẻ khóa bằng kim loại hình chữ “T”.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 11/BB.DG ngày 17/01/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 61C1-219.69 màu đỏ đen, trị giá 8.500.000 đồng.

Tại cáo trạng số: 148/CT-VKS ngày 22 tháng 04 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Trọng H về Tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Phạm Trọng H mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 61C1-21969 màu đỏ đen đã trả lại cho bị hại anh Nguyễn Văn T. Đối với 01 cây đoản bẻ khóa bằng kim loại hình chữ “T” Phạm Trọng H dùng làm công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Trọng H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận, đối đáp gì và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 11 giờ ngày 12/01/2019 tại nhà phân phối bánh kẹo “P” thuộc lô số 2, khu dân cư P, khu phố Đ, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương, Phạm Trọng H nhìn thấy xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 61C1-219.69 của anh Nguyễn Văn T để trước hành lang. Phạm Trọng H dùng cây đoản hình chữ T mở khóa xe, nổ máy chạy về hướng cổng khu công nghiệp Tân Đông Hiệp B thì bị anh Nguyễn Thanh T bắt giữ. Tài sản bị chiếm đoạt trị giá 8.500.000đồng.

[2] Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

g) Tái phạm nguy hiểm.

…”

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang. Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Trọng H lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại là xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 61C1-219.69 trị giá 8.500.000đồng. Bản án số 305/2014/HSST ngày 11/9/2014 Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Nghệ An xử phạt 30 tháng tù về tội trộm cắp tài sản; bị cáo đã chấp hành án phí; chấp hành xong hình phạt ngày 25/7/2016 nhưng chưa bồi thường thiệt hại về trách nhiệm dân sự cho người bị hại. Năm 2014, bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý đã đủ yếu tố cấu thành Tội trộm cắp với tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 148/CT-VKS ngày 22 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo Phạm Trọng H là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; tài sản bị chiếm đoạt đã thu hồi trả lại cho người bị hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là có nhân thân xấu, nhiều lần bị Tòa án xét xử về tội trộm cắp tài sản.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt là mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển kiểm soát 61C1-219.69 màu đỏ đen đã trả lại cho bị hại anh Nguyễn Văn T. Bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Xét cây đoản bẻ khóa bằng kim loại hình chữ “T” Phạm Trọng H dùng làm công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử quyết định xử phạt hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[11] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo và vấn đề xử lý vật chứng là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Quá trình điều tra, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[13] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Trọng H phạm tội trộm cắp tài sản.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Trọng H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ ngày 12/01/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tch thu tiêu hủy 01 cây đoản bằng hình kim loại chữ “T”.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/4/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Phạm Trọng H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2019/HS-ST ngày 29/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:149/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về