Bản án 149/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8 - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 149/2019/HS-ST NGÀY 25/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 141/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2019/QĐXXST-HS, ngày 11/10/2019 đối với bị cáo:

PTP, sinh năm: 1977 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông PTL © và bà HTD; vợ, con: Chưa có: tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tại bản án số 167/STHS ngày 29/7/1998, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; chấp hành xong bản án ngày 07/10/1998. Ngày 23/11/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh tại trung tâm Chữa bệnh Đức Hạnh, với thời hạn là 24 tháng, kể từ ngày 19/11/2012. Ngày 28/10/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp quản lý sau cai nghiện ma túy, thời hạn 24 tháng, kể từ ngày 19/11/2014. Ngày 10/4/2015, Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục Lao động – Bảo trợ xã hội Phú Văn, thời hạn 24 tháng; ngày 09/02/2017 chấp hành xong quyết định; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/5/2019. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 03 giờ 10 phút, ngày 19/5/2019, tại trước số 258/45 DBT, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh; tổ tuần tra 363 Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện PTP có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên tiến hành kiểm tra thì PTP bỏ chạy và bị bắt giữ. Qua kiểm tra, tổ tuần tra phát hiện thu giữ dưới đất ngay chỗ PTP đứng 01 gói giấy màu trắng, bên trong có 03 đoạn ống nhựa chứa chất ma túy, tạm giữ của PTP 01 điện thoại di động hiệu GiGi màu xám, gắn sim số 0888804045. Vụ việc được đưa về trụ sở Công an Phường 2, Quận 8 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Sau đó, chuyển giao toàn bộ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 để điều tra làm rõ.

Theo Bản kết luận giám định số 1119/KLGĐ-H ngày 24/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong 03 đoạn ống nhựa màu trắng (đựng trong 01 gói giấy) được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên PTP và hình dấu Công an phường 2, Quận 8 (Ký hiệu mẫu m) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1585g (không phẩy một năm tám năm gam), loại Heroine.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, PTP khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 00 giờ, ngày 19/5/2019, PTP liên hệ với “Chảy” (không rõ lai lịch) để mua Heroine thì “Chảy” đồng ý bán. Sau đó, PTP đón xe ôm đến điểm hẹn ở khu vực đường Bình Đông, Phường 13, Quận 8 gặp và mua của “Chảy” 03 tép heroine đựng trong gói giấy. PTP trả cho “Chảy” số tiền 260.000 đồng, rồi PTP đón xe ôm đi về đến đầu hẻm 258 Dương Bá Trạc, PTP xuống xe đi bộ để tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ tuần tra Công an Quận 8 yêu cầu kiểm tra, PTP bỏ chạy đến trước nhà số 258/45 DBT, Phường K, Quận L thì bị bắt giữ nên PTP đã ném số ma túy mua được xuống đất và bị phát hiện thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu GiGi màu xám thu giữ của PTP, qua điều tra xác định PTP có sử dụng liên lạc với người bán ma túy.

Đối với người bán ma túy cho PTP, do không xác định được lai lịch; nên Cơ quan điều tra Công an Quận 8 không đủ cở sở để xử lý trong vụ án này.

Bản cáo trạng số 138/CT-VKS ngày 22/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo PTP về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để xử phạt bị cáo PTP mức án từ 02 (Hai) năm đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật. Đồng thời, đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo (do bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính, hoàn cảnh gia đình khó khăn, khó thi hành).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo PTP đã khai nhận toàn bộ hành vi cất giữ, cất giấu trái phép chất ma túy để sử dụng; qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1585g (không phẩy một năm tám năm gam), loại Heroine; thì bị tổ tuần tra 363 Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng vào lúc 03 giờ 10 phút, ngày 19/5/2019, tại trước số 258/45 DBT, Phường K, Quận L, Thành phố Hồ Chí Minh.

Do đó, đã có đủ cơ sở đế kết luận: Bị cáo PTP đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về nhân thân: Bị cáo PTP có quá trình nhân thân xấu (đã từng bị Tòa án xét xử và từng bị đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc), nhưng không chịu tu dưỡng, sửa chữa lỗi lầm và phấn đấu thành công dân sống có ích, mà lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý, thể hiện thái độ xem thường pháp luật; nên cần lưu ý khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về lỗi lầm đã gây ra; bản thân bị cáo hiện đang bị bệnh nặng, sức khỏe kém; để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần về hình phạt theo quy định tại điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với bị cáo PTP về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, mức án mà Kiểm sát viên đề nghị phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội và nhân thân của bị cáo; nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại Khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Nhưng xét thấy bị cáo phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính, mà chỉ để sử dụng cho bản thân và có hoàn cảnh gia đình khó khăn, khó thi hành; nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng:

- 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 1119/2019 có chữ ký giám định viên Lê Thị Hằng và cán bộ Lê Hoài An; qua giám định, bên trong chứa chất ma túy độc hại (bị cấm tàng trữ, cấm lưu hành), nên tịch thu tiêu hủy.

-01 (một) điện thoại di động hiệu GiGi màu xám, số Imei 1: 356240800284442, số Imei 2: 356240800284459; là tài sản của bị cáo PTP và bị cáo đã dùng vào việc phạm tội; nên tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo PTP, hiện chưa xác định được lai lịch; nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 không có cơ sở xử lý.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt: Bị cáo PTP 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính kể từ ngày 19/5/2019.

Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung đối với bị cáo PTP.

Về vật chứng: Căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Tịch thu và tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong bên ngoài ghi số 1119/2019 có chữ ký giám định viên Lê Thị Hằng và cán bộ Lê Hoài An.

- Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu GiGi màu xám, số Imei 1: 356240800284442, số Imei 2: 356240800284459.

(Vật chứng theo phiếu nhập kho vật chứng số 216/PNK, lập ngày 14/8/2019 của Cơ quan CSĐT Công an Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh).

Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo PTP phải chịu số tiền là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

278
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 149/2019/HS-ST ngày 25/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:149/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về