TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 149/2019/HS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 138/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2019/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vũ Văn Đ (tên gọi khác:không), sinh năm 1980,tại Ninh Bình; Nơi cư trú: Phố P, phường T, thành phố N, tỉnh Ninh Bình; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Văn L và bà Trần Thị K; Vợ: Lý Thị C ( đã ly hôn), con: có 1 con sinh năm 2007.
Tiền án, Tiền sự: không;
Nhân thân: Ngày 30/01/2011 Công an thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội số 10/QĐ-XPHC về hành vi đánh nhau số tiền 750.000đ; vi phạm hành chính của bị cáo đã được xóa;
Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/7/2019, đến ngày 31/7/2019 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay (có mặt).
- Người làm chứng:
+ Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1987; (Vắng mặt)
+ Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1962; (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhau sau:
Hồi 15 giờ 30 phút, ngày 25/7/2019, Tổ công an phụ trách xã Ninh Tiến, thành phố Ninh Bình phối hợp cùng Công an phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình làm nhiệm vụ tại đường Lương Văn Thăng, phố 11, phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình phát hiện Vũ Văn Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 35N8 - 2701 có biểu hiện nghi vấn, Tổ công tác đã ra tín hiệu yêu cầu dừng xe để kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra Vũ Văn Đ biết không che giấu được hành vi của mình đã tự giác lấy trong túi áo ngực bên phải giao nộp cho Tổ công tác 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Vũ Văn Đ tự khai nhận đây là gói ma túy loại Heroine mà Đ vừa mua ở một ngôi nhà ven đường quốc lộ 10, thuộc xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định với giá 200.000 đồng về để sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành thu giữ niêm phong vật chứng theo đúng quy định và đưa Vũ Văn Đ cùng tang vật, những người liên quan về trụ sở Công an phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, ngoài ra còn thu giữ của Đ 01 xe mô tô biển kiểm soát 35N8 - 2701 hiệu CAVALRY màu nâu và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu xanh đen.
Cơ quan Công an tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột dạng cục màu trắng thu giữ của Vũ Văn Đ có khối lượng là 0,135 gam, ký hiệu M gửi giám định xác định loại ma túy, khối lượng chất ma túy.
Tại bản kết luận giám định số 249/KLGĐ - PC09 - MT ngày 29/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình, kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M có khối lượng 0,1235 (không phảy một nghìn hai trăm ba mươi lăm) gam là ma túy, loại Heroine. Heroine là chất ma tuý thuộc bảng Danh mục I, số thứ tự 9; Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Số heroine thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu giám định (không hoàn trả mẫu vật) số còn lại 0,0666 gam cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong , Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã chuyển cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình quản lý để giải quyết cùng vụ án.
Quá trình điều tra Vũ Văn Đ khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng Heroine nên Đ đã mượn xe mô tô của anh Phạm Văn T sang khu vực huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định mua Heroine về sử dụng. Khi đi qua Cầu Non Nước khoảng 2km đến một ngôi nhà ở mặt đường 10 thuộc xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, Đ dừng xe trước cửa một ngôi nhà, gõ cửa và nói “Anh ơi bán cho e một cái” ý nói là bán cho 1 gói Heroine, đồng thời Đ nhét 200.000 đồng qua lỗ cửa nhỏ, bên trong có người cầm tiền và đưa lại cho Đ 01 một gói nhỏ, nhận biết là Heroine Đ bỏ gói nhỏ vào bên trong túi áo ngực bên phải và điều khiển xe về thành phố Ninh Bình thì bị Tổ công an phát hiện thu giữ ma túy.
Tại bản cáo trạng số 142/CT- VKS, ngày 15 tháng 10 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình truy tố bị cáo Vũ Văn Đ ra trước Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình để xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt: Bị cáo Vũ Văn Đ từ 12 đến 15 tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 25/7/2019; Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ toàn bộ số ma túy còn lại sau khi gửi giám định cùng toàn bộ vỏ, bao gói ban đầu thu giữ của Vũ Văn Đ; Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo Vũ Văn Đ khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên toà bị cáo Vũ Văn Đ đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ; kết luận giám định số 249/KLGĐ- PC09 - MT ngày 29/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Ninh Bình và phù hợp với lời khai của người làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Ngày 25/7/2019 tại đường Lương Văn Thăng, phố 11, phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình, bị cáo Vũ Văn Đ đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp trong người 0,1235gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt giữ, hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”; Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn làm ảnh hưởng trực tiếp đến trật tự an toàn xã hội, đến sức khoẻ của con người và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác…Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, có công việc ổn định, biết rõ việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng để thoả mãn nhu cầu của bản thân bị các vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, chứng tỏ bị cáo bất chấp coi thường pháp luật. Để đảm bảo trật tự an toàn xã hội cũng như có tác dụng giáo dục bị cáo thì việc truy tố, đưa ra xét xử buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự là cần thiết.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi đánh nhau.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; khi bị công an yêu cầu kiểm tra hành chính bị cáo đã tự giác giao nộp gói ma túy, đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tạo điều kiện cho bị cáo học tập, lao động, cải tạo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Hội đồng xét xử thấy hành vi, tội danh và điều khoản áp dụng tại bản cáo trạng, lời luận tội, các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo như Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật.
Về hình phạt bổ sung: Xét hành vi tàng trữ ma túy của bị cáo chỉ nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, không mang tính chất vụ lợi, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Các vấn đề khác:
- Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo khai mua của một người không quen biết qua lỗ nhỏ trên cánh cửa của ngôi nhà nằm trên đường 10, thuộc xã Yên Bằng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, bị cáo không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể của người bán ma túy cho mình nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình không có căn cứ điều tra, làm rõ để xử lý.
- Vật chứng của vụ án: Số ma túy, loại heroine thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,1235 gam, sau khi lấy mẫu giám định (không hoàn trả mẫu vật) số còn lại 0,0666 gam cùng toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.Tất cả được niêm phong trong một phong bì ghi số 249/KLGĐ-PC09-MT.
- Đối với 01 xe mô tô biển kiểm soát 35N8 - 2701 hiệu CAVALRY màu nâu thu giữ của bị cáo Vũ Văn Đ: quá trình điều tra xác định đăng ký xe mang tên anh Hoàng Văn C ở phố B, N, Ninh Bình, anh C đã bán chiếc xe này cho anh Phạm Văn T ở phố Đ, phường T, thành phố N là người làm cùng với bị cáo Đ ở Trạm trộn X, thành phố N; sau khi mua xe anh T chưa làm thủ tục sang tên song anh T cũng được xác định là chủ sở hữu của chiếc xe này; ngày 25/7/2019 anh T cho bị cáo mượn xe nhưng không biết bị cáo mượn để đi mua ma túy nên không vi phạm. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho anh T là đúng quy định pháp luật. Anh T đã nhận lại chiếc xe và không có đề nghị gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Viettel màu xanh đen IMEI1: 356781090296794, IMEI2: 356781090296802 thu giữ của bị cáo Vũ Văn Đ: Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại này là tài sản của bị cáo Đ không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Ninh Bình đã trả lại cho ông Vũ Văn L; Trú tại : Phố P, phường P, thành phố Ninh Bình ( bố của bị cáo) được bị cáo ủy quyền nhận lại tài sản là có căn cứ và đúng pháp luật.
Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r,s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn Đ phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn Đ 12 ( Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ ngày 25/7/2019.
Việc xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư dán kín, niêm phong theo đúng quy định của pháp luật bên ngoài ghi dòng chữ “ Mẫu vật hoàn trả số 249/KLGD-PC09-MT”(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Ninh Bình và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình).
Về án phí: Bị cáo Vũ Văn Đ phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án .
Áp dụng Điều 26 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì ngư- ời được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”./.
Bản án 149/2019/HS-ST ngày 21/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 149/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về