Bản án 147/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN - TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 147/2019/HS-ST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 144/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 150/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh ngày 04/7/1977 tại Bắc Giang; nơi đăng ký thường trú: Xóm K, xã L, huyện H, tỉnh Bắc Giang; Chỗ ở: Khối 9, đường N, phường T, thành phố L; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị T (đều đã chết); vợ: Nguyễn Thị H; con: Có 01 con, sinh năm 2012; tiền án: Không có; tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/6/2019 đến nay, có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Thế A, vắng mặt.

+ Ông Vương Quốc H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 11/6/2019, tại khu vực ngõ 195 đường B, phường T, thành phố L; tổ công tác Công an thành phố L làm nhiệm vụ đã phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ trong vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng, có 03 (ba) gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng cùng một số tài sản cá nhân khác. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định.

Ti Bản kết luận giám định số 224/ KL-PC09 ngày 14/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận chất bột màu trắng có trong ba gói giấy bạc gửi đến giám định là chất ma túy Heroine khối lượng là 0,105gam.

Ti bản cáo trạng số 146/KSĐT ngày 27/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự;

Ti phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn C khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy từ năm 2013 và từ đầu năm 2018 đến nay bị lệ thuộc vào ma túy nên thường xuyên mua chất ma túy để sử dụng. Vào khoảng 15 giờ ngày 11/6/2019, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 12F9-6276 từ cửa khẩu T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn về thành phố L tìm mua ma túy. Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 11/6/2019, bị cáo đến ngõ 195 đường B, phường T, thành phố L mua 03 gói ma túy Heroin, được đựng trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng với giá 160.000 đồng với 01 nam thanh niên không biết tên, tuổi, địa chỉ. Sau đó bị cáo cất vào trong túi áo ngực bên trái đang mặc và điều khiển xe mô tô đi tìm nơi sử dụng. Đi được khoảng 50m thì bị lực lượng Công an kiểm tra phát hiện lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ niêm phong vật chứng nói trên.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn C thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ nguyên nội dung truy tố như cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp ổn định và không có tài sản.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy một phong bì đựng chất ma túy đã niêm phong hoàn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; tịch thu, hóa giá sung Ngân sách Nhà nước chiếc điện thoại nhãn hiệu SONY màu đen, số Imei 354469091352061. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Ti phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận; lời nói sau cùng bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và cộng đồng xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên toà. Như vậy có đủ căn cứ khẳng định Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy và biết việc mua bán, tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới sức khỏe, thiệt hại về kinh tế của cá nhân và gia đình, đồng thời là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện.

[3] Về nhân thân: Bị cáo Nguyễn Văn C sinh ra trong gia đình là nông dân lao động, có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định. Tuy nhiên, do tính thích ăn chơi nên từ năm 2013 đã sử dụng trái phép chất ma túy, vì vậy phải xử lý nghiêm.

[4] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn C thành khẩn khai báo, đó tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự được xem xét khi quyết định hình phạt.

[6] Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân bị cáo, thấy rằng đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, bởi lẽ bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng. Vì vậy, việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là cần thiết, để bị cáo có thời gian chữa bệnh và lao động, sớm trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, góp phần răn đe và phòng ngừa tội phạm tại địa phương.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh về tài sản và thu nhập ngày 01/8/2019 xác định bị cáo Nguyễn Văn C có nghề nghiệp và thu nhập không ổn định và không tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về xử lý vật chứng: Gồm một phong bì đựng chất ma túy đã niêm phong hoàn lại sau giám định; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng là vật Nhà nước cấm tàng trữ sử dụng và vật không có giá trị nên tịch thu để tiêu hủy. Đối với 01 xe mô tô BKS 12F9-6276, Nguyễn Văn C khai nhận mua của 01 người đàn ông không quen biết từ đầu năm 2019 với giá 01 triệu đồng. Cơ quan điều tra xác minh chủ sở hữu chiếc xe mô tô là Nguyễn Thế A, sinh năm 1985, trú tại tổ 3, khối 5, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; hiện nay Nguyễn Thế A không có mặt tại địa phương. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã chuyển chiếc xe đến đội Cảnh sát giao thông để tiếp tục xác minh giải quyết. Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Riêng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh đang tạm giữ không liên quan đến hành vi phạm tội nhưng bị cáo không có nhu cầu sử dụng nên tịch thu, hóa giá sung Ngân sách Nhà nước.

[10] Đối với người nam thanh niên đã bán ma túy cho Nguyễn Văn C tại ngõ 195 đường B, phường T, thành phố L. Do bị cáo không xác định họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý trong vụ án. Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ (11/6/2019)

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một phong bì đựng chất ma túy đã niêm phong hoàn lại sau giám định, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; tịch thu, hóa giá sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh, số Imei 355205/05/5040295/5, đã sử dụng.

(Vật chứng nói trên đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L, tỉnh L theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/8/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L)

3. Án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung Ngân sách Nhà nước.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 147/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:147/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về