Bản án 147/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 147/2018/HS-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 151/2018/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 539/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn D (tên gọi khác: Vỹ E), sinh năm 1996; tại Cà Mau; nơi cư trú: số 107, khóm N, phường M, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: chạy xe Honda khách; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Giàu (đã chết) và bà Trần Thị Hòa; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: 02 lần. Lần 1: Ngày 11/4/2017, bị Công an phường M, thành phố Cà Mau ra quyết định xử phạt viphạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền phạt là 750.000đ, đã nộp phạt ngày 11/4/2017. Lần 2: Ngày 19/4/2017, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường M, thành phố Cà Mau ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ, cất giấu trong người công cụ nhằm mục đích gây thương tích cho người khác với số tiền phạt là 2.500.000đ, đã nộp phạt ngày 19/4/2017; nhân thân: chưa có án tích nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần; bị bắt tạm giữ từ ngày 01/4/2018 và chuyển tạm giam cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 10 phút ngày 01/4/2018, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Cà Mau kết hợp với Công an xã L, thành phố Cà Mau phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn D đang tàng trữ trái phép chất ma túy tại khách sạn Á Đông 2 thuộc ấp B, xã L, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Tang vật thu giữ gồm: Kiểm tra trong túi quần Jean phía sau, bên trái của D phát hiện 01 bịch nylon bên trong có chứa tinh thể trong suốt, màu trắng (D khai là ma túy đá) được niêm phong có chữ ký của D; tiền Việt Nam là 1.350.000đ; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu đen đã qua sử dụng và 01 xe mô tô hiệu Airblade màu đen, biển số 69B1-231.08. Đồng thời, khám xét nơi ở của D thu giữ tại phòng ngủ của Nguyễn Văn V (Vỹ A) là anh ruột của D 01 bịch nylon bên trong có chứa tinh thể trong suốt dạng rắn (nghi là ma túy) được niêm phong có chữ ký của Nguyễn Văn V, 01 bình tự chế dùng để sử dụng ma túy và 02 cây mã tấu tự chế.

Tại kết luận giám định số 154/KLGP-PC54 ngày 03/4/2018, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long, kết luận: Mẫu tinh thể rắn trong suốt bên trong 01 bịch nylon được niêm phong ký hiệu M.12/2018 gửi giám định là ma túy có khối lượng 5,0083g, loại Methamphetamine; Mẫu tinh thể rắn trong suốt bên trong 01 bịch nylon được niêm phòng ký hiệu M.13/2018 gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,2819g, loại Methamphetamine. Hoàn lại đối tượng giám định gồm mẫu tinh thể trong phong bì ký hiệu M.12/2018 có khối lượng 4,6820g, mẫu tinh thể trong phong bì ký hiệu M.13/2018 có khối lượng 0,1652g cùng vỏ bao gói.

Quá trình điều tra, Nguyễn Văn D khai nhận: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 01/4/2018, Phong điện thoại kêu D đến ngã ba nhà thờ thuộc phường 6, thành phố Cà Mau gặp Phong và Phong đưa cho D số tiền 2.500.000đ kêu đi mua ma túy đá mang vào Khánh sạn Á Đông 2 để cả hai cùng sử dụng. D đồng ý và điều khiển xe 69B1-231.08 đến bến xe khách gặp một người đàn ông không rõ họ tên, người đàn ông này kêu D đưa 2.500.000đ rồi chỉ cho D đến vách tường trong bến xe lấy ma túy được đựng trong gói thuốc lá 7 hột xoàn, D mở gói thuốc ra kiểm tra thấy bên trong có 01 bịch ma túy đá nên bỏ trong túi quần chạy về khách sạn thì bị lực lượng Công an bắt giữ bắt quả tang cùng tang vật. Đối với bịch ma túy thu giữ được khi khám xét tại phòng ngủ của D (trước đây là phòng ngủ của V) là ma túy của Phong mang đến để sử dụng cùng với D nhưng chưa sử dụng hết nên cất lại thì bị Cơ quan điều tra khám xét và thu giữ.

Tại cáo trạng số: 151/KSĐT-TA ngày 31/7/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Văn D (Vỹ E) về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo D thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng, không oan – sai nhưng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình chăm sóc mẹ già, làm người tốt, sống có ích cho xã hội.

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy và căn cứ điểm g khoản 2Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 06 năm đến 07 năm tù. Về vật chứng, xử lý theo quy định tại Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Do nghiện ma túy nên vào khoảng 21 giờ 10 phút ngày 01/4/2018, bị cáo Nguyễn Văn D đã, đang cất giữ trái phép chất ma tuý loại Methamphetamine ở trong người và nơi ở có tổng khối lượng 5,2902g nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra, phù hợp với kết luận giám định.

Hành vi cất giữ bất hợp pháp chất ma tuý của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức và biết được tác hại của ma tuý nhưng vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

 [2] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội thấy rằng, hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội bởi chính tác hại của ma tuý đặc biệt là loại ma túy đá sẽ gây ức chế về thần kinh, tạo ảo giác mạnh cho người sử dụng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi, là mầm móng cho việc lây lan bệnh tật, gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội khác. Trong vụ án này, tuy bị cáo chưa có án tích nhưng xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và tính đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, bị cáo lại tiếp tục phạm tội điều đó biểu hiện thái độ xem thường pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo chưa tốt. Do đó, cần xử lý nghiêm hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

 [3] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và có người chú ruột là người có công với nước (thương binh ¾, có xác nhận của chính quyền địa phương nơi cư trú) nên cần áp dụng các tình tiết trên là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 cho bị cáo là phù hợp.

Với đánh giá tại các đoạn [2] và [3] nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy chỉ nhằm mục đích sử dụng chứ không có mục đích nào khác nên cần xử phạt bị cáo dưới mức hình phạt của Kiểm sát viên đề nghị nhưng trên mức khởi điểm của khung hình phạt là tương xứng với hành vi, hậu quả mà bị cáo đã gây ra.

 [4] Về vật chứng của vụ án, Cơ quan giám định đã hoàn lại toàn bộ mẫu vật sau giám định để trong hai phong bì niêm phong số: 154/M.12, 154/M.13 cần tịch thu, tiêu hủy. Đối với một bình tự chế dùng để sử dụng ma túy đá – là công cụ, dụng cụ bị cáo dùng để sử dụng ma túy và 02 cây dao tự chế (mã tấu) hiện không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy. Riêng điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu đen (đã qua sử dụng), bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước. Đối với số tiền Việt Nam là 1.350.000đ và một xe mô tô biển số 69B1-231.08, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã xử lý trong quá trình điều tra nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Đối với người tên Phong và người bán ma túy cho D, do không biết họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được. Do đó, Kiểm sát viênđề nghị tách ra giao cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiếp tục điều tra làm rõ, có căn cứ xử lý sau là phù hợp.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn V và Danh Hoàng Tỷ, hiện Tỷ cùng với V đã bỏ địa phương đi nên Cơ quan điều tra không mời làm việc được. Do đó, Kiểm sát viên đề nghị tách ra giao cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiếp tục điều tra làm rõ, xử lý sau là có cơ sở.

 [5] Về án phí, bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Căn cứ vào Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D (Vỹ E) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D (Vỹ E) 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/4/2018.

2. Về vật chứng.

- Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: Hai phong bì hình chữ nhật hoàn mẫu vật sau khi trích giám định và lưu số 154/M.12, 154/M.13 ngày 03/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Long cùng một bình tự chế và hai cây dao tự chế (mã tấu).

- Tịch thu, nộp vào ngân sách nhà nước một điện thoại di động hiệu Iphone 6màu đen (đã qua sử dụng).

3. Án phí.

Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn D (Vỹ E) phải nộp số tiền là200.000đ (hai trăm nghìn đồng – chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 147/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:147/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về