Bản án 146/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, TP. HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 146/2018/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 396/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2018 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 175/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 119/2018/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Đinh Văn O, sinh năm 1987; địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố H; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Đào Thị M, sinh năm 1991; địa chỉ: Thôn H, xã L, huyện T, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 07/12/2017 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là anh Đinh Văn O trình bày:

1. Về hôn nhân:

Anh O và chị Đào Thị M kết hôn với nhau vào năm 2011 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn ngày 30/5/2011 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố H. Sau cưới, chị M về gia đình anh sinh sống, vợ chồng đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn H, xã L cho đến nay. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận và có 02 con chung, đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống cũng như trong việc nuôi dạy con, chị M thường hay bỏ nhà đi vài ngày rồi lại về mà không nói lý do, anh và gia đình tham gia khuyên bảo nhiều lần nhưng chị M không thay đổi dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm. Vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay và không còn quan tâm nhau. Nay anh xác định tình cảm không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên anh đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn chị M.

2. Về con chung:

Anh O trình bày anh và chị M có hai con chung tên là Đinh Văn M sinh ngày 02/4/2012 và Đinh Thị D sinh ngày 11/3/2015. Anh trực tiếp nuôi hai con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, các con khỏe mạnh và phát triển tốt. Khi ly hôn, anh đề nghị được tiếp tục nuôi hai con. Cấp dưỡng nuôi con chung để anh và chị M tự thỏa thuận giao nhận với nhau nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung:

Anh O trình bày anh và chị M không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Đào Thị M là bị đơn trong vụ án, cho đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai vẫn không có ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành pháp luật, bị đơn không chấp hành pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: Về hôn nhân: Anh Đinh Văn O được ly hôn chị Đào Thị M; về con chung: Giao cho anh Đinh Văn O trực tiếp nuôi hai con chung tên là Đinh Văn M sinh ngày 02/4/2012 và Đinh Thị D sinh ngày 11/3/2015 cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn là anh Đinh Văn O vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, bị đơn là chị Đào Thị M vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Đinh Văn O và chị Đào Thị M đã được xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 58 đăng ký ngày 30/5/2011 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố H). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh tại địa phương thể hiện quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016 và sống ly thân từ đó cho đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Chị M vẫn sinh sống và làm việc tại địa phương, biết việc anh O xin ly hôn tại Tòa án song chị M không trình bày quan điểm của mình. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng có tồn tại làm cho hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Anh O yêu cầu ly hôn, căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh O được ly hôn chị M.

[3]. Về con chung: Anh O và chị M có hai con chung tên là Đinh Văn M sinh ngày 02/4/2012 và Đinh Thị D sinh ngày 11/3/2015. Việc giao con chung cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, anh O trực tiếp nuôi hai con từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, việc nuôi con đã ổn định, các con khỏe mạnh và được đảm bảo tốt về mọi mặt, khi ly hôn anh O đề nghị được tiếp tục nuôi hai con, chị M không có ý kiến. Do vậy, cần giao hai con chung cho anh O trực tiếp nuôi là phù hợp với các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh O đề nghị để anh và chị M tự thỏa thuận giao nhận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Anh O trình bày anh và chị M không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị M chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.

[6]. Về án phí: Anh O phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Anh Đinh Văn O được ly hôn chị Đào Thị M.

2. Về con chung: Giao cho anh Đinh Văn O trực tiếp nuôi hai con chung tên là Đinh Văn M sinh ngày 02/4/2012 và Đinh Thị D sinh ngày 11/3/2015 cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động, trừ trường hợp có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Anh Đinh Văn O phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009058 ngày 04/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố H. Anh Đinh Văn O đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

5. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 146/2018/HNGĐ-ST ngày 11/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:146/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về