Bản án 145/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 145/2021/HS-ST NGÀY 08/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 132/2021/TLST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 156/2021/HSST-QĐ ngày 26 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Ngọc V, sinh ngày 02 tháng 6 năm 1991 tại Hải Phòng. Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Đường Đ, phường L, quận N, thành phố Hải Phòng; Chỗ ở: Lang thang, không có nơi ở cố định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: V Nam; con ông Trần Doãn V và bà Phạm Thị H; tiền án: Tại Bản án số 152/2018/HSST ngày 06/11/2018, Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản ; tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 32/2008/HSST ngày 27/3/2008, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo về tội Cướp tài sản, khi phạ m tội 16 tuổi 02 tháng 12 ngày (đã được xóa án tích); tại Bản án số 38/2009/HSST ngày 22/4/200 9, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 12 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tổng hợp hình phạt với bản án số 32/2008/HSST ngày 27/3/2008 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản á n là 36 tháng tù, khi phạm tội 17 tuổi 6 tháng 29 ngày (đã được xóa án tích); tại Bản án số 72/2015/HSST ngày 11/8/2015, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã được xóa án tích) ; bị t ạm giữ ngày 12/3/2021; chuyển tạm giam ngày 15/3/2021; có mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Quốc K; vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Đức T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ ngày 11/3/2021, tại khu vực trước cửa số nhà 29/201 Lạch Tray, Ngô Quyền, Hải Phòng, Công an quận Ngô Quyền bắt quả tang Trần Ngọc V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy Vật chứng thu giữ gồm: 01 gói nilon kích thước khoảng 10x15cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sony và 01 xe moto BKS 15B1-75648.

Do Trần Ngọc V sống lang thang, không có nơi ở cố định nên cơ quan điều tra không tiến hành khám xét khẩn cấp.

Tại Kết luận giám định số 205/KLGĐ-MT ngày 12/3/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong gói nilon, kích thước khoảng 10x15 cm thu giữ của V là ma túy, có khối lượng là 4,14 gam, là loại Methamphetamine.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Trần Ngọc V khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, không có việc làm ổn định nên bị cáo nảy sinh ý định đi mua ma túy về bán kiếm lời. Ngày 10/3/2021, bị cáo đến nhà người bạn quen biết xã hội tên là Nguyễ n Quốc K (sinh năm: 1976, trú tại: Số 26D tầng 4 CT5 A9 phường Vạn Mỹ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng) chơi. Tại đây, K hỏi mua của bị cáo 300.000 đồng ma túy đá. Bị cáo đồng ý và một mình đi đến đường tàu Bình Hải, quận Ngô Quyền gặp và hỏi mua của một người đàn ông không quen biết 300.000 đồng ma túy đá. Người đàn ông này đồng ý, nhận tiền và bán cho V 01 gói ma túy đá. Mua được ma túy, V bớt lại một ít ma túy đá trong gói để sau này tự sử dụng cho bản thân, số ma túy còn lại thì bị cáo mang đến nhà K bán cho K với giá 300.000 đồng. Cùng ngày 10/3/2021, Nguyễn Đức T, sinh năm 1978; trú tại: Số 1/317C đường Đà Nẵng, phường Vạn Mỹ, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng là bạn xã hội cũng hỏi mua của bị cáo 200.000 đồng ma túy đá. Bị cáo đồng ý và đi đến đường tàu Bình Hải mua của một người p hụ nữ không quen biết 200.000 đồng ma túy đá.

Mua được ma túy, bị cáo bớt lại một ít ma túy đá trong gói để sau này tự sử dụng cho bản thân, số ma túy còn lại thì V mang đến nhà T bán cho T với giá 200.000 đồng. Đến khoảng 20h ngày 10/3/2021, có 01 số máy lạ “0787284333" nhắn tin cho V giới thiệu tên là T và nói “Lấy cho em hộp 5". Bị cáo V hiểu là T hỏi mua 05 gam ma túy đá. Đến khoảng 20h30' ngày 11/3/2021, bị cáo dùng điện thoại gọi lại cho T để hỏi T xem có mua ma túy không thì T trả lời “Có". Khoảng 21h cùng ngày, bị cáo dùng điện thoại của mình gọi điện cho T và nói “Lấy được ma túy rồi". T nói “Cho em hộp 5”. V nói với T giá “hộp 5" ma túy đá là 2.500.000 đồng. T đồng ý và hẹn V cầm ma túy đến ngõ 201 Lạch Tray, quận Ngô Quyền để giao dịch mua bán ma túy với T. Lúc này, bị cáo điều khiển xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius BKS 15B1- 756.48 đi đến cửa hàng tạp hóa ở đường Bùi Thị Tự Nhiên, phường Đông Hải 1, quận Hải An mua 20.000đ phèn chua. Mua được phèn chua, bị cáo mang về nhà T ở cuối chợ Vạn Mỹ mượn búa rồi đi vào nhà vệ sinh đập nhỏ các viên phèn chua cho giống ma túy đá, sau đó bị cáo lấy một ít ma túy đá bớt được khi mua ma túy cho T và K đem trộn đều với số phèn chua nói trên, ước lượng khoảng 05 gam rồi cho vào gói nilon kích thước khoảng 10x15cm mang đến trước cửa số nhà 29/201 Lạch Tray, quận Ngô Quyền chờ giao dịch với T. Đúng lúc này, khoảng 22h cùng ngày bị cáo bị Công an quận Ngô Quyền kiểm tra, thu trong lòng bàn tay trái của bị cáo 01 gói nilon có kích thước khoảng 10x15 cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy. Cơ quan Công an đã thu giữ vật chứng đồng thời dẫn giải bị cáo về trụ sở lập biên bản.

Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Trần Ngọc V, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng cùng vật chứng thu giữ và kết luận giám định.

Vật chứng: 01 xe moto Yamaha Sirius BKS 15B1- 756.48, qua xác minh chủ xe là ông Dương Chí Đằng (địa chỉ: Số 11/430 Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng) đã chết từ năm 2014, gia đình hiện không còn sinh sống tại địa chỉ trên, Cơ quan điều tra chưa xác minh được chủ sở hữu hợp pháp nên tách ra xem xét xử lý sau, 01 phong bì niêm phong số 205/MT/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định và 01 điện thoại nhãn hiệu Sony đã qua sử dụng đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Trong vụ án này, đối tượng bán ma túy cho V, hiện chưa làm rõ được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xử lý.

Đối với người xưng tên là T dùng số điện thoại 0787284333 gọi hỏi mua ma túy của V, qua xác minh người đăng ký thuê bao là anh Nguyễn Hải H. Tuy nhiên, anh Hà và gia đình đã bán nhà đi khỏi địa phương từ năm 2010. D o đó, chưa xác định được lai lịch địa chỉ của đối tượng tên T hỏi mua ma túy của V nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ có căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

Tại Cáo trạng số 134/CT-VKS ngày 06/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi của mình như nội dung Cáo trạng, phù hợp với hồ sơ vụ án.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức án từ 09 (chín) đến 10 (mười) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng vụ án:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 205/MT/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định và 01 điện thoại nhãn hiệu Sony hiện không còn giá trị sử dụng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06 tháng 8 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 300.000 đồng + 200.000 đồng = 500.000 (năm trăm nghìn) đồng do bị cáo bán ma túy cho K và T để nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Các vấn đề khác:

Trong vụ án này, đối tượng bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa làm rõ đư ợc lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để xử lý.

Đối với người xưng tên là T dùng số điện thoại 0787284333 gọi hỏi mua ma túy của bị cáo, qua xác minh người đăng ký thuê bao là anh Nguyễn Hải H, hiện chưa xác định được lai lịch địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và nếu có căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

Đối với 01 xe moto Yamaha Sirius BKS 15B1- 756.48, Cơ quan điều tra chưa xác minh được chủ sở hữu hợp pháp nên tách ra xem xét xử lý sau.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đư ợc thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã th ực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên tòa, những người làm đều vắng mặt, không có lý do nhưng trước đó, tại cơ quan điều tra người làm chứng đã có lời khai thể hiện quan điểm nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về tội danh:

[3] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, Bản kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Do đó, có căn cứ khẳng định:

[4] Vào các ngày 10-11/3/2021, tại địa bàn quận Ngô Quyền, bị cáo đã có hành vi 02 lần bán trái phép chất ma túy Methamphetamine cho Nguyễn Đức T 300.000 đồng và Nguyễn Quốc K 200.000 đồng, đồng thời cất giấu trái phép 4,14 gam ma túy Methamphetamine, đang trên đường mang đi bán cho người khác thì bị bắt quả tang. Tại thời điểm thực hiện hành vi trên, bị cáo là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” với tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

[5] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo về tội danh cũng như đi ều luật áp dụng là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[6] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội nên cần xử lý nghiêm.

+ Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[7] Bị cáo bị Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 152/2018/HSST ngày 06/11/2018 (chưa được xóa án tích), lần này phạm tội nên phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS của Bộ luật Hình sự.

+ Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[8] Quá trình đi ều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

+ Về áp dụng hình phạt chính đối với bị cáo:

[9] Bản thân bị cáo đã có 04 tiền án, trong đó có 03 tiền án đã được xóa và 01 tiền án chưa được xóa. Do vậy cần đánh giá bị cáo là người có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém nên cần có mức án nghiêm khắc, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian tại cơ sở giam giữ đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

+ Về áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo:

[10] Xét bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Về xử lý vật chứng:

[11] Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy tang vật gồm 01 phong bì niêm phong số 205/MT/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định và 01 điện thoại nhãn hiệu Sony đã hư h ỏng không còn giá trị sử dụng thể hiện tại Biên bản kiểm tra điện thoại ngày 11/3/2021 theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06 tháng 8 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

[12] Buộc bị cáo Trần Ngọc V phải nộp lại số tiền 300.000 đồng + 200.000 đồng = 500.000 (năm trăm nghìn) đồng do bị cáo bán ma túy cho K và T để nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Các vấn đề Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[13] Trong vụ án này, đối tượng bán ma túy cho bị cáo, hiện chưa làm rõ được lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra chưa có cơ sở để xử lý và nếu có căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

[14] Đối với người xưng tên là T dùng số điện thoại 0787284333 gọi hỏi mua ma túy của bị cáo, qua xác minh người đăng ký thuê bao là anh Nguyễn Hải H, hiện chưa xác định được lai lịch địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ và nếu có căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.

[15] Đối với 01 xe moto Yamaha Sirius BKS 15B1- 756.48, qua xác minh chủ xe là ông Dương Chí Đ đã chết từ năm 2014, gia đình hiện không còn ai sinh sống tại địa chỉ trên, Cơ quan điều tra chưa xác minh được chủ sở hữu hợp pháp nên tách ra xem xét xử lý sau.

- Về án phí:

[16] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo:

[17] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Ngọc V 09 (chín) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 12 tháng 3 năm 2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sựkhoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 205/MT/PC09 chứa chất ma túy còn lại sau giám định và 01 điện thoại nhãn hiệu Sony đã bị vỡ, hư hỏng, không còn giá trị sử dụng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 06 tháng 8 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Buộc bị cáo Trần Ngọc V phải nộp lại số tiền thu lời bất chính là 300.000 đồng + 200.000 đồng = 500.000 (năm trăm nghìn) đồng do bị bán ma túy cho Nguyễn Quốc K và Nguyễn Đức T để nộp vào ngân sách Nhà nước.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Ngọc V được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 145/2021/HS-ST ngày 08/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:145/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về