Bản án 143/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 143/2021/HSST NGÀY 27/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 27 tháng 4 năm 2021 tại Hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 128/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Hồng T, sinh ngày 19/4/1977.

Nơi cư trú: tổ 9, thị trấn A, huyện Y, tỉnh B. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh, tôn giáo: Không; trình độ học vấn 12/12, nghề nghiệp : Không. Con ông Hoàng Đại P, sinh năm 1943; con bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1947. G ia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Có vợ Bế Thị N sinh năm 1983 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2002. Tiền án, tiền sự: Không.

- Nhân thân: Tại Bản án số 169 ngày 24/7/2014 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố HN xử phạt Hoàng Hồng T 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đã chấp hành bản án xong ngày 7/5/2015.

Bị cáo đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/12/2020 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa)

Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1989. Địa chỉ T.M, T.Q, thành phố S.C, tỉnh TN. (Vắng mặt tại phiên tòa);

Người chứng kiến: Anh Tạ Ngọc L, sinh năm 1976. Địa chỉ tổ 05, phường Q.V, thành phố TN. (Vắng mặt tại phiên tòa);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các Tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút ngày 30/12/2020, tổ công tác Công an phường Q.V làm nhiệm vụ tại địa bàn tổ 3 của phường phát hiện 01 nam giới đi xe mô tô BKS 20B1- 117.12 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra, nam giới khai nhận là Hoàng Hồng T đồng thời T tự giác lấy từ túi quần phía sau bên phải đang mặc 01 gói nhỏ bằng giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác. T khai là ma túy Heroine của T vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác tạm giữ của T 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA NOUVO LX, BKS 20B1-117.12 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VSMART màu đen.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Hoàng Hồng T là 0,2 gam. Niêm phong kí hiệu T gửi giám định.

Tại Bản Kết luận giám đ ịnh số 161/KL-KTHS ngày 07/01/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong bì ký hiệu T gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,2 gam.

Tại cơ quan điều tra Hoàng Hồng T khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 30/12/2020, T điều khiển xe mô tô BKS 20B1-117.12 (xe của T) đến khu vực tổ 3, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố TN mục đích mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi T gặp 01 nam thanh niên tên Hùng (không rõ lai lịch, đ ịa chỉ) hỏi mua ma túy và được Hùng bán cho 01 gói ma túy hero ine được gói bằng giấy màu trắng với giá 50.000 đồng. T cất gói ma túy trên vào túi quần phía sau bên phải đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phường Q.V phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng, tạm giữ đồ vật như trên.

Lời khai nhận của Hoàng Hồng T phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám đ ịnh và các Tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Vật chứng cua vụ án là: 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu VSMART; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA NOUVO LX, BKS 20B1-117.12, đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn M, sinh năm 1989, HKTT: T.M, T.Q, S.C, TN. Hiện được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 125/CT-VKSTPTN ngày 23 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN đã truy tố bị cáo Hoàng Hồng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như như nội dung bản cáo trạng truy tố.

Trong phần luận tội tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN tóm tắt nội dung vụ án, phân tích các căn cứ quy kết bị cáo Hoàng Hồng T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; đánh giá nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Hồng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt Hoàng Hồng T từ 24 đến 30 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng là vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu VSMART và 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA NOUVO LX, BKS 20B1- 117.12, đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn M, sinh năm 1989, HKTT: T.M, T.Q, S.C, TN Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận, thừa nhận việc truy tố và xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là không oan, đúng người, đúng tội Phần lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để bị cáo s ớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, các quyết đ ịnh tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố TN, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó các quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan Điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và vật chứng thu giữ. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Hồi 18 giờ 30 phút ngày 30/12/2020, tại tổ 3, phường Q.V, thành phố TN, Hoàng Hồng T có hành vi tàng trữ 0,2 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác Công an phường Q.V, thành phố TN phát hiện bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng.

[3] Đánh giá của Hội đồng xét xử: Bị cáo biết ma túy là vật cấm được Nhà quản lý nhưng vấn cố tình tàng trữ 0,2 gam Heroine để sử dụng cho bản thân. Do vậy hành vi của bị cáo đã đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều 249 quy định:

"1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a... c, Heroine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[4] Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý, sử dụng chất gây nghiện, gây mất trật tự trị an ở địa phương.

[5] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

5.1. Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự; năm 2014 bị Tòa án quận B, thành phố HN xử phạt 15 tháng tù về tội "Trộm cắp T sản", đã chấp hành xong bản án ngày 07/5/2015 1.2.Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại đ iểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, bị cáo là người nghiện ma túy, có nhân thân đã từ bị xét xử bằng 01 bản án nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, coi thường pháp luật, nên Hội đồng xét xử cân nhắc có một mức án nghiêm minh tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo để bị cáo có ý thức chấp hành pháp luật, rèn luyện bản thân cải tạo trở thành người tốt.

Mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo tại phiên tòa cơ bản phù hợp, tương xứng với nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[6] Vật chứng của vụ án:

- 01 gói giấy màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng là vật chứng là vật cấm và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA NOUVO LX, BKS 20B1-117.12, đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn M, sinh năm 1989, HKTT: T.M, T.Q, S.C, TN, quá trình điều tra anh M khai không b ị mất hay tranh chấp gì và đã bán chiếc xe trên cho một cửa hàng sửa chữa xe máy năm 2018; bị cáo khai mua xe bằng tiền của bị cáo năm 2019, khi mua của một người không nhớ lai lịch địa chỉ, không có giấy tờ mua bán và 01 điện thoại di động nhãn hiệu VSMART. Những T sản này do bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[7] Về hình phạt bổ sung và án phí Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tuy nhiên bị cáo khai là người nghiện ma túy, thu nhập không ổn định, không có T sản riêng, nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước. Nguồn gốc số ma tuý thu giữ, T khai mua của một người nam giới tên Hùng (không rõ lai lịch, địa chỉ) ở khu vực phường Q.V, thành phố TN. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN không có cơ sở làm rõ để xử lý.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

1. Bị cáo: Hoàng Hồng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; đ iểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự;

2. Xử phạt: Bị cáo Hoàng Hồng T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;

Căn cứ Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự Quyết định tạm giam bị 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu T bên trong chứa ma túy, hoàn trả 0,190 gam mẫu T còn lại sau giám đ ịnh, mặt sau phong bì có 02 dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TN có chữ ký của Nguyễn Thành Trung;

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô biển kiểm soát: 20B1- 117.12, nhãn hiệu: YAMAHA, xe đã qua sử dụng, số máy: 5P11-376730; số khung: BY376721; loại xe: Hai bánh từ 50 -175cm3; số loại NOUVO; dung tích xi lanh: 132; số chỗ ngồi: 2; màu sơn: Bạc nâu; ngày đăng ký mới: 16/09/2011; trạng thái xe: Đang lưu hành và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VSMART, màu đen đã qua sử dụng, số IMEI 1: 355123111843752; IMEI 2: 355123111843760. Theo biên bản giao nhận vật chứng số 253 ngày 17/3/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố TN.

3. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy đ ịnh về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

Bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 143/2021/HSST ngày 27/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy 

Số hiệu:143/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về