Bản án 143/2019/HSST ngày 26/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG - TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 143/2019/HSST NGÀY 26/12/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 12 năm 2019. Tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 119/2019/HSST ngày 02 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 241/2019/QĐXXST- HS ngày 13 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: HOÀNG TRUNG V (tên gọi khác: Hoàng S); Sinh ngày: 09/10/1980 tại thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Hộ khẩu thường trú: Tổ B, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở: Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Nghề nghiệp trước khi phạm tội: không; Trình độ học vấn: 6/12 phổ thông; Dân tộc: tày; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng, chính quyền, đoàn thể trước khi phạm tội: không; Con ông: Hoàng Bình L - sinh năm 1958 (Hộ khẩu thường trú: huyện V, tỉnh Lào Cai); Con bà: Đào Thị B - sinh năm 1958 (Hộ khẩu thường trú: Tổ M, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng); Vợ: Trương Thị Hồng L - sinh năm 1983 (Ly hôn năm 2009); Con: bị cáo có 01 con, sinh năm 2002; Anh chị em ruột: bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con cả trong gia đình.

Tiền án: 03 tiền án:

- Ngày 21/11/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Ngày 24/9/2010 bị Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Ngày 04/9/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tiền sự: không. Nhân thân:

Ngày 26/5/1998 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng) xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng từ ngày 22/8/2019; "Có mặt".

- Người làm chứng:

1. Nguyễn Đức T - sinh năm 1988;

Nơi cư trú: Xóm B, N, xã H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; "Vắng mặt".

2. Hoàng Thị Lập P - sinh năm 1984 Hô khẩu thường trú: Đ, K, Trùng khánh, Cao Bằng;

Chỗ ở: Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; "Vắng mặt".

3. Hoàng Quốc H - sinh ngày 13/9/2002.

Chỗ ở: Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng.

Người giám hộ: Ông Phạm Minh C (Tổ trưởng Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng); (Đều vắng mặt).

4. Phạm Minh C Nơi cư trú: Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; (Tổ trưởng Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng); "Vắng mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 19 giờ 00 phút ngày 22/8/2019 tại phòng trọ của Hoàng Trung V (sinh ngày 09/10/1980; Hộ khẩu thường trú: Tổ B, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở: Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) thuộc tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố Cao Bằng bắt quả tang V có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ:

+ 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong là lớp giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,28g (không phẩy hai tám gam) thu giữ trong bồn cầu nhà vệ sinh.

+ 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có 43 (bốn mươi ba) gói nhỏ nilon màu trắng, lớp trong là giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng có khối lượng 7,40g (bẩy phẩy bốn không gam) thu giữ ở cửa thông gió phòng vệ sinh.

+ 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có 01 (một) gói giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,05g (không phẩy không năm gam) thu giữ ở trong túi áo khoác bên phải treo trong tủ phòng khách phòng trọ.

+ Tiền Việt Nam: 2.300.000đ (hai triệu ba trăm nghìn đồng) thu giữ trong chậu quần áo trong nhà vệ sinh.

+ Tiền Việt Nam: 302.000đ (ba trăm linh hai nghìn đồng) thu giữ trên giường trong phòng ngủ.

+ 01 (một) cân điện tử màu bạc mặt sau có dán băng dính đen thu giữ trong phòng ngủ.

+ 01 (một) cân điện tử màu bạc thu giữ trong tủ phòng khách phòng trọ.

+ 01 (một) điện thoại di động mặt trước có chữ Mobistar màu trắng đen, máy không có pin, có một thẻ sim có dãy số 000401, thu giữ dưới đất cạnh cửa phòng trọ.

Quá trình điều tra ban đầu, Hoàng Trung V khai nhận mục đích tàng trữ ma túy là để sử dụng cho bản thân và bán lại cho các đối tượng nghiện khác để kiếm lời. Tuy nhiên, đến ngày 28/8/2019 V khai mục đích tàng trữ ma túy chỉ là để sử dụng cho bản thân, không nhằm mục đích bán lại kiếm lời, khi bị bắt do cảm thấy hoang mang lo sợ, bản thân lại đang bị bệnh lao phổi (V bị tạm giam sau đó được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh trong một vụ án khác) nên không đủ tỉnh táo, khai báo chưa đúng về mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình mở rộng điều tra không xác định được V đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho ai. Xét thấy lời khai ngày 28/8/2019 của Hoàng Trung V là có căn cứ nên ngày 30/8/2019 cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng ra Quyết định thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định thay đổi quyết định khởi tố bị can đối với Hoàng Trung V từ tội Mua bán trái phép chất ma túy sang tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Vào hồi 14 giờ 00 phút ngày 23/8/2019 tại Công an thành phố Cao Bằng, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng và giám định viên PC09 Công an tỉnh Cao Bằng tiến hành cân xác định khối lượng tang vật thu giữ của Hoàng Trung V, kết quả: Khối lượng chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ghi mẫu QT01 là 0,28g (không phẩy hai tám gam); Khối lượng chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ghi mẫu QT02 là 7,40g (bảy phẩy bốn không gam); Khối lượng chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ghi mẫu QT03 là 0,05 g (không phẩy không năm gam). Tổng khối lượng chất bột màu trắng là 7,73g (bảy phẩy bảy ba gam).

Ngày 16 tháng 9 năm 2019, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng ra Quyết định trưng cầu giám định số 177 đối với vật chứng vụ án. Tại bản Kết luận giám định số 242 ngày 25/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “Cả 03 (ba) mẫu chất bột màu trắng ngà bên trong phong bì niêm phong gửi giám định đều là ma túy, loại: Heroine”.

Quá trình điều tra, Hoàng Trung V khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 17 giờ ngày 21/8/2019, V gọi điện thoại cho Đặng Quang T (sinh ngày 04/10/1984; Hộ khẩu thường trú: tổ M, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở: tổ C, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) hỏi T có Heroine không, nếu có cho V mua 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng) để V mang về sử dụng cho bản thân. T đồng ý và hẹn gặp V tại khu vực cầu H thuộc tổ H, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, V đã đưa cho T số tiền 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng), T nhận tiền rồi lấy từ trong người ra 03 (ba) gói nilon màu trắng chứa Heroine đưa cho V rồi đi đâu không biết, còn V mang số Heroine vừa mua được về phòng trọ tại Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng mở 01 (một) gói Heroine chia bớt ra 01 (một) gói nhỏ để sử dụng dần cho bản thân rồi cất gói nhỏ Heroine chưa sử dụng hết vào túi áo khoác treo trong tủ phòng khách phòng trọ. Đến 18 giờ 30 phút ngày 22/8/2019, V lấy 03 (ba) gói Heroine mua được với T ra trộn với nhau rồi chia thành 43 (bốn mươi ba) gói nhỏ Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng, lớp ngoài là nilon màu trắng rồi cho tất cả vào một túi nilon màu trắng để sử dụng dần, số Heroine chưa chia hết V gói lại bằng giấy bạc màu trắng, lớp ngoài là nilon màu trắng. Đến 19 giờ 00 phút cùng ngày, cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra phòng trọ của Hoàng Trung V đã bắt quả tang V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ toàn bộ vật chứng như đã nêu ở trên.

Hành vi của Hoàng Trung V (tên gọi khác: Hoàng S) đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại bản Cáo trạng số 123/CT-VKSTP ngày 28/11/2019 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Hoàng Trung V (tên gọi khác: Hoàng S) về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của Hoàng Trung V đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Hoàng Trung V mua ma túy về mục đích để sử dụng cho bản thân.

Tại phiên tòa Hoàng Trung V (Hoàng S) khai nhận về hành vi phạm tội của mình: Ngày 21/8/2019 khoảng 17 giờ V được gọi điện thoại cho Đặng Quang T ở tổ C, phường S, thành phố C hỏi T có Heroine không, nếu có cho V mua 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng). T đồng ý và hẹn gặp V tại khu vực cầu H thuộc phường S, thành phố C. Tại đây, V đã mua được với T 03 (ba) gói Heroine với số tiền 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng). Sau khi mua được Heroine V đi về phòng trọ tại Tổ B, phường N, thành phố C mở 01 (một) gói Heroine bớt ra 01 (một) gói nhỏ để sử dụng dần cho bản thân rồi cất gói nhỏ Heroine chưa sử dụng hết vào túi áo khoác treo trong tủ phòng khách phòng trọ. Đến 18 giờ 30 phút ngày 22/8/2019, V lấy 03 (ba) gói Heroine mua được với T ra trộn với nhau rồi chia thành 43 (bốn mươi ba) gói nhỏ, số Heroine chưa chia hết V gói lại bằng giấy bạc màu trắng. Đến 19 giờ 00 phút cùng ngày, cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra phòng trọ đã bắt quả tang V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng Heroine, tiền mặt, điện thoại, cân điện tử. Khi tiến hành kiểm tra tại phòng trọ của V có P (là bạn gái của V), T (bạn V), H (con trai V). T vừa đến phòng V chơi, không có mục đích gì khác. T, P, H không biết V có ma túy. Hành vi mua ma túy và tàng trữ ma túy của V chỉ do một mình V thực hiện, không có sự giúp sức, giúp đỡ của ai. Đây là lần đầu tiên V mua Heroine với T. V mua số Heroine ngày 21/8/2019 về mục đích là để sử dụng cho bản thân, không có mục đích nào khác.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hoàng Trung V (tên gọi khác: Hoàng S) nhất trí với khối lượng ma túy (heroine) bị thu giữ và nội dung bản kết luận giám định số 242/GĐMT ngày 25/9/2019 và không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng.

Vật chứng bị thu giữ:

+ 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong là lớp giấy bạc màu trắng chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,28g (không phẩy hai tám gam) thu giữ trong bồn cầu nhà vệ sinh; 01 (một) túi nilon màu trắng bên trong có 43 (bốn mươi ba) gói nhỏ nilon màu trắng chứa chất bột màu trắng có khối lượng 7,40g (bẩy phẩy bốn không gam) thu giữ ở cửa thông gió phòng vệ sinh; 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong có 01 (một) gói chứa chất bột màu trắng có khối lượng 0,05g (không phẩy không năm gam) thu giữ ở trong túi áo khoác bên phải treo trong tủ phòng khách phòng trọ (là vật chứng vụ án); .

+ Tiền Việt Nam: 2.300.000đ (hai triệu ba trăm nghìn đồng) thu giữ trong chậu quần áo trong nhà vệ sinh và 302.000đ (ba trăm linh hai nghìn đồng) thu giữ trên giường trong phòng ngủ là tiền của bị cáo do lao động (làm khung nhôm cửa kính) mà có, tại phiên tòa bị cáo V đề nghị được nhận lại số tài sản đó.

+ 01 (một) cân điện tử thu giữ trong phòng ngủ; 01 (một) cân điện tử thu giữ trong tủ phòng khách phòng trọ. Tại phiên tòa, V khai không biết nguồn gốc 02 cân điện tử, khi V đến phòng trọ đã thấy có ở đó, cân điện tử dùng để cân vàng.

+ 01 (một) điện thoại di động Mobistar màu trắng đen thu giữ dưới đất cạnh cửa phòng trọ là điện thoại của V dùng để liên lạc hàng ngày với gia đình nhưng ngày 21/8/2019 V sử dụng điện thoại đó để liên lạc trao đổi mua ma túy với T, liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Tại phiên toà Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Hoàng Trung V(tên gọi khác: Hoàng Sa) về tội danh, điều luật như đã nêu trong bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249, Điều 56, Điều 38 Bộ luật hình sự năm năm 2015.

Tuyên bố: bị cáo Hoàng Trung Vphạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Về mức hình phạt: đề nghị xử phạt bị cáo Hoàng Trung V với mức án từ 07 năm đến 08 năm tù. Tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2019/HSST ngày 04/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt bị cáo Hoàng Trung V 18 (mười tám) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Hình phạt bổ sung: bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, xử lý vật chứng: Xử tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong ghi tang vật cân khám xét vụ Hoàng Trung V; Tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động Mobistar màu trắng đen. Trả lại cho bị cáo 02 (hai) cân điện tử và số tiền 2.300.000đ + 302.000đ nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án. Về án phí: Theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội... Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

Tại phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng.

Khi được nói lời sau cùng bị cáo biết hành vi bị cáo thực hiện là sai, là vi phạm pháp luật mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Hoàng Trung V (Hoàng S) khai nhận về hành vi phạm tội của mình: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 17 giờ ngày 21/8/2019, V gọi điện thoại cho Đặng Quang T (Chỗ ở: tổ C, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) hỏi T có Heroine không, nếu có cho V mua 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng). T đồng ý và hẹn gặp V tại khu vực cầu H thuộc tổ H, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, V đưa cho T số tiền 10.800.000đ (mười triệu tám trăm nghìn đồng), T nhận tiền rồi lấy từ trong người ra 03 (ba) gói nilon màu trắng chứa Heroine đưa cho V rồi T đi đâu không biết, còn V mang số Heroine vừa mua được về phòng trọ tại Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng mở 01 (một) gói Heroine chia bớt ra 01 (một) gói nhỏ để sử dụng rồi cất gói nhỏ Heroine chưa sử dụng hết vào túi áo khoác treo trong tủ phòng khách phòng trọ. Đến 18 giờ 30 phút ngày 22/8/2019, V lấy 03 (ba) gói Heroine mua được với T ra trộn với nhau rồi chia thành 43 (bốn mươi ba) gói nhỏ Heroine rồi cho tất cả vào một túi nilon màu trắng, số Heroine chưa chia hết V gói lại bằng giấy bạc màu trắng, lớp ngoài là nilon màu trắng. Đến 19 giờ 00 phút cùng ngày, cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra phòng trọ của V bắt quả tang V có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ vật chứng Heroine, tiền mặt, điện thoại, cân điện tử. Mục đích V mua số Heroine ngày 21/8/2019 là để sử dụng cho bản thân, không có mục đích nào khác. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đủ cơ sở xác định: Hồi 19 giờ 00 phút ngày 22 tháng 8 năm 2019 tại phòng trọ của Hoàng Trung V thuộc Tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng bắt quả tang V có hành vi Tàng trữ trái phép 7,73g (bảy phẩy bảy ba gam) Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.

Hành vi của Hoàng Trung V (tên gọi khác: Hoàng S) đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước ta về chất ma túy. Bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự. Là người đủ năng lực nhận thức, năng lực hành vi. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình gây ra.

Mục đích của bị cáo là mua số Hêrôin đó về để sử dụng cho bản thân, không có mục đích khác, không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy. Bị cáo nhận thức được hành vi bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Trong vụ án này Hội đồng xét xử xác định bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Khối lượng ma túy tàng trữ 7,73gam; bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

Như vậy, hành vi của bị cáo Hoàng Trung V (tên khác: Hoàng S) đã đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

… g) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

o) Tái phạm nguy hiểm.” Bị cáo là người có đủ năng lực nhận thức, năng lực hành vi. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là hàng quốc cấm, pháp luật nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy... đồng thời hiểu biết được sự nguy hiểm và tác hại của chất ma túy nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Khối lượng ma túy (Heroine) bị cáo tàng trữ là 7,73gam, đồng thời đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố Hoàng Trung V về tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo Hoàng Trung V là trái pháp luật, là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó không chỉ xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy mà còn là nguyên nhân làm nảy sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức rõ hành vi tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do nhu cầu sử dụng của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Vì vậy, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là đúng và cần thiết. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật, có như vậy mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo Hoàng Trung V là người có năng lực nhận thức, năng lực hành vi nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân, bị cáo đã sử dụng ma túy và có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Bản thân đã nhiều lần bị kết án về tội Mua bán trái phép chất ma túy, một lần bị kết án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Trộm cắp tài sản: Ngày 26/5/1998 Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng) xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Ngày 21/11/2002 Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Ngày 24/9/2010 Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Ngày 04/9/2019 Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xử phạt 18 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt). Xét nhân thân bị cáo là rất xấu là đối tượng nghiện ma túy đã nhiều năm. Mặc dù đã được cải tạo, giáo dục nhiều lần nhưng khi về địa phương bị cáo không lấy đó làm bài học cho mình vẫn coi thường pháp luật tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai báo chưa thật sự thành khẩn nên bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo tàng trữ khối lượng ma túy (Heroine) là 7,73gam, phạm tội thuộc trường hợp đã tái phạm chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, đây là hai tình tiết định khung hình phạt nên không được coi là tình tiết tăng nặng, do đó bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Hoàng Trung V với mức án từ 07 đến 08 năm tù. Hội đồng xét xử xét thấy mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng đối với bị cáo V là phù hợp với quy định của pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.

Khi xét xử vụ án này bị cáo Hoàng Trung V (Hoàng S) đã bị Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy với hình phạt chính là hình phạt tù, mức hình phạt là 18 (mười tám) tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 92/2019/HSST ngày 04/9/2019, án đã có hiệu lực. Theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (Điều 56), tổng hợp hình phạt của nhiều bản án: Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này... Điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung, hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với tù có thời hạn... Do vậy, phần quyết định về hình phạt của bản án này sẽ tổng hợp với hình phạt bản án số 92/2019/HSST ngày 04/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng.

[6] Về hình phạt chính: Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định "Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản". Vì vậy, ngoài hình phạt chính theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn đinh. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Hoàng Trung V (Hoàng S).

[8] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án hiện đang tạm giữ tại kho tang vật của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo biên bản bàn giao vật chứng số 33 ngày 12 tháng 12 năm 2019 gồm:

- 01 (một) phong bì niêm phong tang vật cân ghi vụ: Hoàng Trung V, sinh năm 1980; HKTT: Tổ B, phường H, thành phố C, là vật chứng của vụ án. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cần xử tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động màu trắng nhãn hiệu Mobistar trong phong bì niêm phong ghi vụ: Hoàng Trung V, sinh năm 1980; HKTT: Tổ B, phường H, thành phố C là điện thoại của bị cáo dùng để liên lạc nhưng ngày 21/8/2019 bị cáo sử dụng điện thoại này để liên lạc trao đổi mua ma túy với người đàn ông tên T, liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo cần xử phát mại sung công quỹ nhà nước.

- 02 (hai) cân điện tử màu bạc không có giá trị sử dụng: Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, cần xử tịch thu tiêu hủy.

- Số tiền 2.300.000 đ (hai triệu ba trăm nghìn đồng) và 302.000 đ là tiền của bị cáo do lao động mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo, nhưng cần tạm giữ toàn bộ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.

[9] Về các vấn đề khác:

Trong vụ án này, về nguồn gốc số Heroine thu giữ khi bắt quả tang, bị cáo khai được mua với Đặng Quang T. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã triệu tập đối tượng Đặng Quang T để lấy lời khai và đối chất với V. Tuy nhiên, T không thừa nhận được bán ma túy cho V, đồng thời việc trao đổi ma túy giữa V và T không có ai biết và chứng kiến. Do vậy, cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ để xác minh xử lý đối với Đặng Quang T.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g, điểm o khoản 2 Điều 249, Điều 38, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Trung V (tên gọi khác: Hoàng S) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt: Bị cáo Hoàng Trung V (tên gọi khác: Hoàng S) 07 (bảy) năm tù. Tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự sơ thẩm số 92/2019/HSST ngày 04/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt bị cáo Hoàng Trung V (Hoàng S) 18 (mười tám) tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Bị cáo Hoàng Trung V (tên gọi khác: Hoàng S) phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 08 năm 06 tháng (tám năm sáu tháng) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 22/8/2019, được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 06/5/2019 đến ngày 03/7/2019.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 1, điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Xử tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) phong bì niêm phong tang vật cân ghi vụ: Hoàng Trung V, sinh năm 1980; HKTT: Tổ B, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở: Tổ B, phường N, thành phố C; Hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 22/8/2019. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng;

+ 02 (hai) cân điện tử màu bạc.

- Xử tịch thu phát mại sung công quỹ nhà nước: 01 (một) phong bì niêm phong điện thoại di động màu trắng, nhãn hiệu Mobistar ghi vụ: Hoàng Trung V, sinh năm 1980; HKTT: Tổ B, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Chỗ ở:

Tổ B, phường N, thành phố C; Hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 22/8/2019. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 03 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng.

- Xử trả lại cho bị cáo Hoàng Trung V(Hoàng S) số tài sản sau:

+ 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tiền Việt Nam 2.300.000đ (hai triệu ba trăm nghìn đồng) vụ: Hoàng Trung V, sinh năm 1980; HKTT: Tổ B, phường H, thành phố C; Chỗ ở: Tổ B, phường N, thành phố C có hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 22/8/2019 và 01 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 02 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng (kèm kết luận giám định tiền VNĐ số 780 ngày 09/12/2019 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng).

Nhưng cần tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án;

+ 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước phong bì ghi tiền Việt Nam 302.000đ (ba trăm linh hai nghìn đồng) vụ: Hoàng Trung V, sinh năm 1980; HKTT: Tổ B, phường H, thành phố C; Chỗ ở: Tổ B, phường N, thành phố C có hành vi: Mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 22/8/2019 và 01 dấu tròn của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng. Mặt sau có chữ ký của các bên tham gia niêm phong cùng 02 dấu tròn của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng (kèm kết luận giám định tiền VNĐ số 780 ngày 09/12/2019 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng).

Nhưng cần tạm giữ số tiền trên để đảm bảo thi hành án.

Xác nhận số vật chứng đã được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo biên bản bàn giao vật chứng số 33 ngày 12/12/2019.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Xử:

Bị cáo Hoàng Trung V (tên gọi khác: Hoàng S) phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 143/2019/HSST ngày 26/12/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:143/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về