Bản án 143/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 143/2019/HS-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 06 tháng 8 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 109/2019/TLST-HS ngày 06.06.2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 200/2019/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

LÊ VĂN T., sinh năm 1986 tại Hà Nội; Nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú: 28 ngõ 190 phố H., phường TX., quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; Địa chỉ cư trú: Nhà trọ không số, ngõ 190 H., tổ 11, khu dân cư số 5, phường H., quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 06/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Con ông: Lê Văn K. (SN: 1954); Con bà: Đỗ Thị Th. (SN: 1957); Vợ: Đỗ Thị Mai Ph. (SN: 1985); có 02 con, con lớn 07 tuổi, con nhỏ 01 tuổi.

Nhân thân: Ngày 30/9/2008, TAND quận Thanh Xuân xử phạt 08 tháng tù về tội Chống người thi hành công vụ (hiện đã xóa án).

Tiền án, tiền sự: Không Tạm giữ ngày 13 tháng 3 năm 2019; Tạm giam ngày 22 tháng 3 năm 2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số II – Công an thành phố Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 12h30 ngày 13/3/2019, tổ công tác Công an phường Kim Giang làm nhiệm vụ tại khu vực đường Kim Giang, phường Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội, phát hiện Lê Văn T. đang đi bộ tại khu vực ngõ 40 Kim Giang có biểu hiện nghi vấn về ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra hành chính đối với T. Quá trình kiểm tra, T. khai nhận với tổ công tác bản thân đang cất giấu ma túy trong người và tự giác lấy ra từ túi phía trước bên phải của chiếc quần đang mặc 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong có chứa tỉnh thể màu trắng giao nộp cho lực lượng công an. Tổ công tác Công an phường Kim Giang đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu và niêm phong số vật chứng trên.

Cơ quan công an đã thu giữ của Lê Văn T.

- 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong có chứa tinh thể màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 1628/KLGĐ-PC09 ngày 19/3/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận:

- Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,103 gam.

Tại cơ quan điều tra, Lê Văn T. khai nhận: số ma túy và mà cơ quan công an thu giữ là của T., mua vào ngày 11/3/2019 của 01 người đàn ông tên Đức tại khu vực cầu mới thuộc phường Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội với giá 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị cơ quan công an kiểm tra, phát hiện, bắt giữ. Trong quá trình điều tra, truy tố, Lê Văn T. đã nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật và đề nghị được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho T., T. khai chỉ biết người này tên Đức và quen qua mối quan hệ xã hội, ngoài ra không biết rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra làm rõ Tại bản cáo trạng số 96/CT-VKS ngày 31.05.2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội đã truy tố Lê Văn T. về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, Bị cáo công nhận nội dung bản cáo trạng nêu là đúng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là phạm tội và ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Văn T từ 22 đến 26 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: Số ma túy đã thu giữ;

Bị cáo Lê Văn T. không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận Thanh Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang... có đủ cơ sở khẳng định:

Khong 12 giờ 30 ngày 13/3/2019, Lê Văn T. đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,103 gam ma túy loại Methamphetamine tại khu vực ngõ 40 Kim Giang, phường Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội với mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị cơ quan công an kiểm tra phát hiện bắt giữ cùng toàn bộ tang vật.

Với hành vi phạm tội như đã nêu trên, cáo trạng số 96/CT-VKSTX ngày 31.05.2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân đã truy tố bị cáo Lê Văn T. theo điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, thể hiện sự coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, nhất là trong thời gian gần đây tệ nạn ma tuý đã gây hậu quả xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do vậy, cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội, nghiêm khắc với bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: không Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, cũng giảm một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[4] Về những vấn đề khác:

*Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo bản thân không có công ăn việc làm ổn định, không có thu nhập nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

* Về vật chứng, xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: số ma túy đã thu giữ.

* Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

* Về quyền kháng cáo: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Văn T. phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo: Lê Văn T. 24 (hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13 tháng 3 năm 2019.

2. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ Luật tố tụng hình sự Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong dán kín, trên mép dán có chữ ký của giám định viên Nguyễn Hoàng Hùng, cán bộ Vũ Thạch Linh, đối tượng Lê Văn T. và dấu đỏ của CAP Kim Giang bên trong có 1,103 gam Methamphetamine (đã thu mẫu giám định).

(Tình trạng như Biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 14giờ 10 phút ngày 05 tháng 8 năm 2019 giữa Công an quận Thanh Xuân và Chi cục thi hành án Dân sự quận Thanh Xuân).

4. Án phí và quyền kháng cáo:

- Áp dụng Điều 136, 331, 333 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Toà án và danh mức án phí lệ phí Toà án ngày 30/12/2016: Bị cáo Lê Văn T. phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 143/2019/HS-ST ngày 06/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:143/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về