Bản án 14/2021/HS-ST ngày 08/03/2021 về tội đe dọa giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 08/03/2021 VỀ TỘI ĐE DỌA GIẾT NGƯỜI

Ngày 08 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 03/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2021/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị L, sinh năm 1975 tại Đồng Nai. Hộ khẩu thường trú: Tổ 1, Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 09/12;

dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (Đã chết) và bà Nguyễn Thị N (Đã chết), chồng tên Nguyễn Đình L1, có 04 người con, lớn nhất sinh năm 1995, nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền án: Không; tiền sự:

Không; nhân thân: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/11/2020 đến ngày 14/12/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng bảo lĩnh; có mặt.

Những người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị L:

1. Bà Ngô Lệ Q, sinh năm 1978 - Luật sư Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn K thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

2. Ông Phạm Bá T, sinh năm 1991 - Luật sư Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn K thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

3. Ông Đỗ Bá D, sinh năm 1980 - Luật sư Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn K thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; vắng mặt.

Bị hại: Bà Phạm Thị H (Thơ), sinh năm 1977. Địa chỉ: Số nhà 26, Tổ 24A, Khu phố 2A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có mặt.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Nguyễn Thị H1 (Út), sinh năm 1963. Địa chỉ: Số nhà 12/2/20, Khu phố 9, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Đình L1, sinh năm 1968. Địa chỉ: Tổ 1, Khu phố 7, phường U, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Những người làm chứng:

1. Bà Trần Thị H2, sinh năm 1965; có mặt.

2. Bà Trần Thị B, sinh năm 1955; có mặt.

3. Ông Võ Văn Đ, sinh năm 1968; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

4. Ông Huỳnh Dương T1, sinh năm 1989; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

5. Bà Nguyễn Đình Hoàng U, sinh năm 1995; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

6. Bà Nguyễn Thị Thanh T2, sinh năm 1983; có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Thị L, bà Phạm Thị H, bà Trần Thị H2 và bà Nguyễn Thị H1 quen biết nhau, cùng làm chung với nhau trong lĩnh vực mua bán đất. Quá trình làm chung, bị cáo L và bà H xảy ra mâu thuẫn về chuyện tiền bạc trong việc mua bán đất nên bị cáo L nhiều lần điện thoại hẹn gặp bà H để giải quyết nhưng bà H tránh mặt. Sau đó, con rể của bị cáo L là ông Huỳnh Dương T1 nhiều lần liên lạc hẹn gặp bà H để nói chuyện thì bà H đồng ý.

Ngày 04/5/2020, bà H nhắn tin hẹn với ông T1 và bà H1 đến nhà giữ rẫy của bà H tại khu phố 5, thị trấn T, huyện B, tỉnh Bình Dương để nói chuyện. Bà H cùng với bà H2 đi đến trước. Bị cáo L thấy tin nhắn của bà H gửi cho bà H1 trong máy điện thoại của bà H1 nên biết được bà H đang chờ bà H1 tại khu phố 5, thị trấn T, huyện B Uyên, tỉnh Bình Dương. Do ông T1 bận công việc nên chưa đến điểm hẹn để gặp bà H. Khoảng 15 giờ 00 phút, bị cáo L điều khiển xe ôtô biển số 61A-444.76 chở bà T2 đi đến nhà giữ rẫy của bà H. Bà H và bà H2 đang ngồi trong phòng khách nên bị cáo L cùng với bà T2 vào ngồi nói chuyện về việc thanh toán tiền mua bán đất. Trong quá trình nói chuyện, bị cáo L nói với bà H: “Sao tới ngày hẹn trả tiền mà chị gọi em, em không bắt máy?”, bà H trả lời: “Tôi không có trách nhiệm gì với chị, chị muốn gì đòi chị H1”. Bị cáo L đứng lên nói: “Tao đi ra ngoài lấy cái này rồi vào làm việc với mày” rồi đi ra xe ôtô đậu trước sân cách nhà khoảng 15m. Khi ra đến xe ôtô, bị cáo L nhìn thấy bình nhựa đựng xăng loại 2L bên trong có chất xăng và thùng đựng nước uống (Loại bình nước giữ nhiệt) để trên xe nên bị cáo L nảy sinh ý định hù doạ bà H để H trả tiền. Bị cáo L đổ chất xăng vào thùng nước uống rồi mang thùng nước có chất xăng đi vào nhà, tiến đến tạt vào người bà H rồi bà H nghe L nói: “Hôm nay tao phải đốt chết mày” và bị cáo L đưa tay vào túi quần giả vờ lấy hột quẹt ra hù doạ bà H nhưng được bà T2 và bà H2 ôm giữ lại. Bà H hoảng sợ, bỏ chạy ra bên hông phía sau nhà mở vòi nước và ngồi xuống rửa chất xăng đang dính trên người. Bị cáo L chạy đuổi theo và nhặt một cây sắt dưới vách tường bên hông nhà đánh vào người bà H ba cái thì bà T2 ôm giữ lại làm rớt cây sắt. Bà H bỏ chạy vào nhà tắm đóng cửa lại, bị cáo L tiếp tục lấy một cây rựa nhưng bà T2 kịp thời ngăn cản nên không lấy được. Bà H2 lấy điện thoại và quần áo đưa vào nhà tắm cho bà H thay. Bà H gọi điện cho bà H1 biết sự việc và kêu bà H1 báo Công an. Do bà H1 đang đi ngoài đường, trời tối và không biết số điện thoại của Công an nên không trình báo. Bà H gọi điện cho ông T1 cùng vợ đến khuyên bị cáo L về. Bà H ngồi đợi đến khoảng 20 giờ 00 phút nhưng không thấy Công an đến nên bà H mang quần áo có dính chất xăng bỏ vào túi nylon rồi chở bà H2 về. Khi về đến nhà bà H2 thì bà H để quần áo có dính chất xăng tại đây. Đến ngày hôm sau, bà H1 đi đến gặp để xin lỗi bà H thay cho bị cáo L và bà H có đưa quần áo có dính chất xăng cho bà H1 xem. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 06/5/2020, bà H chở bà H2 và mang quần áo có dính chất xăng đến Công an thị trấn Tân Thành, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình D tố cáo hành vi của bị cáo L.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thu giữ: 01 cây rựa dài 75cm; 01 thanh sắt phi 12 dài 53cm; 01 cái hột quẹt gas màu đỏ; 01 bình nhựa loại 2L, bên trong có 250ml chất lỏng có mùi xăng; 01 thùng giữ nhiệt dung tích 10L màu đỏ (Dùng để đựng nước uống); 01 cái áo nữ màu xanh; 01 cái quần tây nữ màu đen; 01 nón vải liền khăn che mặt có hình sọc carô màu xanh.

Ngày 29/6/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương ra Kết luận giám định số 08/GĐHPL-PC09 xác định chất lỏng trong bình nhựa 2L gửi đến giám định có thành phần xăng dầu.

Ngày 10/7/2020, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương ra Kết luận giám định số 08BS/GĐHPL-PC09 xác định 01 thùng giữ nhiệt màu đỏ bên trong rỗng gửi đến giám định tìm không thấy thành phần xăng dầu; 01 áo thun nữ gửi đến giám định tìm không thấy thành phần xăng dầu; 01 quần dài nữ màu đen gửi đến giám định có thành phần xăng dầu.

Ngày 04/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam Nguyễn Thị L về tội “Đe doạ giết người” theo khoản 1 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Ngày 17/11/2020, Trung tâm pháp y tỉnh Đồng Nai ra Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 1047/TgT/2020 xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của bà Phạm Thị H là 03%.

Bản Cáo trạng số 06/CT-VKS-BTU ngày 22/01/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thị L về tội “Đe dọa giết người” theo khoản 1 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65, khoản 1 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Nguyễn Thị L bồi thường, khắc phục hậu quả cho bà Phạm Thị H số tiền 10.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

01 xe ôtô biển số 61A-444.76 của bà Nguyễn Thị H1 mua nhưng để cho bị cáo Nguyễn Thị L đứng tên. Bị cáo L không sử dụng xe ôtô biển số 61A-444.76 để phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương không tiến hành thu giữ.

Đối với 01 cây rựa dài 75cm; 01 thanh sắt phi 12 dài 53cm; 01 bình nhựa loại 2L; 01 thùng giữ nhiệt dung tích 10L màu đỏ; 01 cái hột quẹt gas màu đỏ liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 cái áo nữ màu xanh, 01 cái quần tây nữ màu đen, 01 nón vải liền khăn che mặt có hình sọc carô màu xanh nhưng bà Phạm Thị H không yêu cầu nhận lại, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Những người bào chữa cho bị cáo trình bày:

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy không có tài liệu, chứng cứ khách quan chứng minh bị cáo Nguyễn Thị L có hành vi đe dọa giết bà Phạm Thị H. Bị cáo Nguyễn Thị L chỉ tạt một lượng xăng nhỏ vào người bà H để giải tỏa cơn bực tức nhất thời do bà H có những hành vi xâm phạm đến quyền lợi của bị cáo L. Bị cáo L pha xăng vào nước để tạt vào người bà H nhằm hù dọa chứ không có ý định để giết bà H, hành vi cầm cây tấn công bà H cũng chỉ gây xây xát nhẹ và không tấn công vào vùng trọng yếu của cơ thể bà H, điều đó cho thấy bị cáo L không mong muốn tước đoạt tính mạng của bà H. Xét về hoàn cảnh, tương quan lực lượng và diễn biến tâm lý của bà H cho thấy bà H có lo lắng nhưng chưa đến mức lo sợ bà L sẽ giết bà H. Bị cáo L không có động cơ, mục đích đe dọa giết người và bà H là người có lỗi. Hành vi của bị cáo L là vi phạm pháp luật nhưng chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Đe dọa giết người”.

Bị cáo thống nhất nội dung vụ án, kết luận giám định, không tranh luận và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại thống nhất nội dung vụ án, kết luận giám định, không có ý kiến tranh luận và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên: Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, bà Nguyễn Thị H1, ông Nguyễn Đình L1, bà Nguyễn Thị Thanh T2, ông Huỳnh Dương T1, bà Nguyễn Đình Hoàng Uyên, ông Võ Văn Đ cùng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người nêu trên.

Về nội dung vụ án:

[3] Căn cứ vào lời khai của bị cáo, các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:

Do mâu thuẫn trong việc mua bán đất, ngày 04/5/2020, bị cáo Nguyễn Thị L đã có hành vi dùng chất lỏng có thành phần xăng dầu tạt vào người bà Phạm Thị H, có lời nói de dọa bà H:Hôm nay tao phải đốt chết mày” và doạ dùng hột quẹt đốt bà H. Bị cáo Nguyễn Thị L còn có hành vi đuổi theo, dùng cây sắt đánh bà Phạm Thị H. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị L làm cho bà Phạm Thị H lo sợ việc đe doạ được thực hiện sẽ gây ra hậu quả thiệt hại về tính mạng đối với người bà H. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Đe doạ giết người” quy định tại khoản 1 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bản cáo trạng số 06/CT-VKS- BTU ngày 22/01/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình D truy tố bị cáo về “Tội đe dọa giết người” theo khoản 1 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền được sống, quyền được bảo vệ tính mạng của người khác và làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đã thực hiện tội phạm là xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả. Hội đồng xét xử cần xử mức án bằng hình phạt tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[7] Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Thời gian bị cáo bị tạm giam cũng đủ để bị cáo nhận ra được hành vi sai trái. Để thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội, Hội đồng xét xử xét áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cho bị cáo được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo, không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại số tiền 10.000.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[9] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Đối với 01 xe ôtô biển số 61A-444.76 của bà Nguyễn Thị H1 mua nhưng để cho L đứng tên. Bị cáo L không sử dụng xe ôtô biển số 61A-444.76 để phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương không thu giữ là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với 01 cây rựa dài 75cm; 01 thanh sắt phi 12 dài 53cm; 01 bình nhựa loại 2L; 01 thùng giữ nhiệt dung tích 10L màu đỏ; 01 cái hột quẹt gas màu đỏ liên quan đến việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 cái áo nữ màu xanh, 01 cái quần tây nữ màu đen, 01 nón vải liền khăn che mặt có hình sọc carô màu xanh bà Phạm Thị H không yêu cầu nhận lại, cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Xét đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt đối với bị cáo, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Xét ý kiến của những người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị L là chưa phù hợp nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

[12] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị L phạm tội “Đe dọa giết người”.

Về hình phạt: Áp dụng các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65, khoản 1 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị L 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 08/3/2021).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 584 của Bộ luật Dân sự năm 2015:

Bà Phạm Thị H được nhận số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) do Nguyễn Thị L nộp tại B lai thu tiền số: AA/2010/08449 ngày 04/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

3. Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy:

01 cây rựa dài 75cm; 01 thanh sắt phi 12 dài 53cm; 01 cái hột quẹt gas màu đỏ;

01 bình nhựa loại 02lít; 01 thùng giữ nhiệt dung tích 10L màu đỏ (Dùng để đựng nước uống); 01 cái áo nữ màu xanh; 01 cái quần tây nữ màu đen và 01 nón vải liền khăn che mặt có hình sọc carô màu xanh.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/01/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình D).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Thị L phải nộp số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo và bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HS-ST ngày 08/03/2021 về tội đe dọa giết người

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về