Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 17/03/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH TÂN, TỈNH VĨNH LONG

 BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/03/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:220/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 12 năm 2020 về việc“Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Lê Ngọc S, sinh năm 1974 (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1965 (vắng mặt) Cùng cư trú: Tổ 5, ấp MT, xã MT, huyện BT, tỉnh V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản khai ngày 09/12/2020 và những lời trình bày tiếp theo tại tòa nguyên đơn Lê Ngọc S trình bày:

Vào năm 1994 bà và ông Nguyễn Văn D sau một thời gian quen biết, tìm hiểu về sống chung như vợ chồng, không có tổ chức đám cưới, không có nữ trang cưới, nhưng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Thuận, huyện Bình Minh (nay là huyện Bình Tân) tỉnh Vĩnh Long.

Sau khi kết hôn bà và ông D về sống chung với gia đình bên chồng, vợ chồng sống rất hạnh phúc được khoảng 05 năm thì bà và mẹ chồng xảy ra mâu thuẫn nên vợ chồng bà về nhà cha mẹ ruột của bà sinh sống đến khi đứa con thứ hai của ông bà được 10 tuổi thì ông D bỏ nhà đi không rõ nguyên nhân, bà có đi tìm nhưng ông D không đồng ý về cùng bà. Sau đó bà và con gái lớn đi Bình Dương làm, đến năm 2014 thì bà nghỉ làm về nhà sống cho đến nay.

Bà Lê Ngọc S xác định nguyên nhân xin ly hôn với ông Nguyễn Văn D là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống và mẫu thuẫn về kinh tế trong gia đình, thêm vào đó vợ chồng sống ly thân đã hơn 10 năm nên bà không còn tình cảm gì với ông D nên xin ly hôn với ông D chứ bà ông có quen ai khác bên ngoài.

Trong quá trình chung sống bà và ông D có hai con chung là Nguyễn Thị Cẩm T (sinh năm 1995) và Nguyễn Hoàng V (sinh năm 1997), hiện các con đã trưởng thành, lập gia đình và có cuộc sống riêng. Trong thời gian chung sống, bà và ông D không tạo lập được tài sản gì, không thiếu nợ ai, cũng không ai thiếu nợ ông, bà.

Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và không thể kéo dài nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Văn D.

Về con chung: Các con đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ tài sản: không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra, bà không còn yêu cầu nào khác.

Tại biên bản hòa giải ngày 27/01/2021 ông Nguyễn Văn D trình bày:

Ông Nguyễn Văn D thống nhất với lời trình bày của bà Lê Ngọc S về quan hệ hôn nhân, về con chung. Về mâu thuẫn gia đình thì bà S trình bày là chưa đúng. Lý do ông bỏ nhà đi vào năm 2006 là vì bà S thiếu nợ nên ông đi làm ở Tiền Giang để kiếm tiền trả nợ, ông đi khoảng hơn 01 năm thì bà S và 02 con đến chỗ ông làm để sống chung khoảng 04 năm, đến năm 2010 bà S đi Bình Dương làm thì vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, do khi làm ở Bình Dương bà S có quen người khác nên vợ chồng không còn liên lạc với nhau cho đến nay. Ông xác định giữa ông và bà S không có mâu thuẫn gì với nhau, nguyên nhân bà S xin ly hôn với ông là do bà S có quen người khác.

Nay bà S khởi kiện yêu cầu Tòa giải quyết ly hôn với ông thì ý kiến của ông như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Ông không đồng ý ly hôn với bà S vì ông vẫn còn thương bà S nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng đoàn tụ.

Về con chung: Các con đã trưởng thành, đã lập gia đình và có cuộc sống riêng nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết Về quan hệ tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận, không tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa:

Bà Lê Ngọc S trình bày: Trong thời gian chung sống bà và ông D phát sinh mâu thuẫn, hay cãi vả nhau đến mức trầm trọng nên bà đến nhà con gái ruột ở thị xã Bình Minh sống từ 2008 cho đến nay. Tại phiên tòa hôm nay bà vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với ông Nguyễn Văn D.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nguyên đơn Lê Ngọc S yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Văn D có nơi cư trú tại tổ 5, ấp MT, xã MT, huyện BT, tỉnh V là quan hệ pháp luật thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh V theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự, tiến hành lập biên bản công khai chứng cứ và hòa giải nhưng hòa giải không thành do đó Tòa án tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Bị đơn Nguyễn Văn D mặc dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Xét bà Lê Ngọc S và ông Nguyễn Văn D kết hôn năm 2001, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Mỹ Thuận, huyện Bình Minh (nay là huyện Bình Tân) tỉnh Vĩnh Long theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa bà S và ông D là hợp pháp. Bà S cho rằng mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng và không thể hàn gắn được nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông D. Ông D thì cho rằng giữa ông và bà S không có mâu thuẫn, ông vẫn còn thương bà S nên yêu cầu Tòa án giải quyết đoàn tụ. Xét tình trạng hôn nhân giữa bà S và ông D là không tồn tại trên thực tế trong một thời gian dài (vợ chồng sống ly thân nhau đã trên 10 năm không thể hàn gắn tình cảm, thậm chí không có liên lạc gì với nhau) thể hiện tình cảm vợ chồng giữa ông D và bà S không còn. Với tình trạng hôn nhân nêu trên cho thấy mâu thuẫn giữa bà S và ông D đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể tiếp tục, đồng nghĩa với việc ông Nguyễn Văn D cho rằng giữa ông và bà Lê Ngọc S không có mâu thuẫn là không có căn cứ nên không có cơ sở để giải quyết cho vợ chồng về đoàn tụ. Từ những nhận định nêu trên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà S, chấp nhận cho bà S ly hôn với ông D theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Ghi nhận bà Lê Ngọc S và ông Nguyễn Văn D có hai con chung là Nguyễn Thị Cẩm T (sinh năm 1995) và Nguyễn Hoàng V (sinh năm 1997), hiện các con đã trưởng thành, lập gia đình và có cuộc sống riêng nên bà S và ông D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3.3] Về quan hệ tài sản: Bà Lê Ngọc S và ông Nguyễn Văn D không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí: Bà Lê Ngọc S phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Căn cứ các Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Ngọc S.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lê Ngọc S ly hôn với ông Nguyễn Văn D.

1.2. Về con chung: Các con đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

1.3.Về quan hệ tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bà Lê Ngọc S nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, bà S được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) đã nộp theo biên lai thu số 0011752 ngày 09/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn không có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 17/03/2021 về ly hôn

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Tân - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về