Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 13/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 13 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 14/2021/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 01 năm 2021 về “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trương Văn P, sinh năm 1964 (có mặt).

Địa chỉ: Ấp PH, xã GH1, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1966 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp PH, xã GH1, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 04/01/2021, chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông Trương Văn P trình bày: Vào tháng 10 năm 1987 ông Trương Văn P lập gia đình sống chung với bà Nguyễn Thị H, không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống đến năm 2010 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong lối sống, không hạnh phúc nên ông P đi tỉnh Hậu Giang ở nhà anh ruột làm ăn, lâu lâu mới về nhà một lần. Đến năm 2014 thì mâu thuẫn giữa ông P và bà H ngày càng trầm trọng. Do đó, kể từ năm 2014 đến nay ông P và bà H không còn sống chung, không còn liên lạc với nhau.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, ông Trương Văn P và bà Nguyễn Thị H có 03 người con chung tên Trương Hoài N, sinh năm 1988; Trương Thanh H1, sinh năm 1990; Trương Thanh C, sinh năm 1992. Cả 03 người con đều đã trưởng thành.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn bà Nguyễn Thị H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã cấp, tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho bà Nguyễn Thị H theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng bà H không gửi ý kiến bằng văn bản cho Toà án biết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cũng không đến Toà án để tham gia phiên toà xét xử sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp: Do vụ án được thụ lý theo đơn khởi kiện của nguyên đơn là tranh chấp ly hôn. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án xét thấy nguyên đơn và bị đơn sống chung từ tháng 10 năm 1987 đến nay nhưng không đăng ký kết hôn, nên Hội đồng xét xử thống nhất xác định lại quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo quy định tại khoản 8 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bị đơn bà Nguyễn Thị H đã được Tòa án cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự, vụ án được đưa ra xét xử đến lần thứ hai nhưng bà H vẫn vắng mặt không có lý do, nên Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung:

[1] Việc tranh chấp giữa ông Trương Văn P và bà Nguyễn Thị H là loại kiện hôn nhân và gia đình. Xét thấy, ông P và bà H tổ chức cưới và sống chung vào tháng 10 năm 1987, nhưng không đăng ký kết hôn. Thời gian chung sống đến năm 2010 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong lối sống, không hạnh phúc nên ông P đi tỉnh Hậu Giang ở nhà anh ruột làm ăn, lâu lâu mới về nhà một lần. Đến năm 2014 thì mâu thuẫn giữa ông P và bà H ngày càng trầm trọng, nên kể từ năm 2014 đến nay ông P và bà H không còn chung sống, không còn quan tâm, không liên lạc với nhau. Như vậy, mục đích hôn nhân giữa ông Trương Văn P và bà Nguyễn Thị H không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Hơn nữa, ông P và bà H tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng vào tháng 10 năm 1987 đến nay nhưng không có đăng ký kết hôn, nên hôn nhân giữa hai người không có giá trị pháp lý, không được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, thụ lý đơn khởi kiện của ông Trương Văn P và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Trương Văn P và bà Nguyễn Thị H.

[2] Về con chung: Trong thời gian chung sống, ông Trương Văn P và bà Nguyễn Thị H có 03 người con chung tên Trương Hoài N, sinh năm 1988; Trương Thanh H1, sinh năm 1990; Trương Thanh C, sinh năm 1992. Cả 03 người con đều đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[3] Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

[4] Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí sơ thẩm: Ông Trương Văn P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 8 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 271; khoản 1 Điều 273; Điều 278 và khoản 1 Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông Trương Văn P và bà Nguyễn Thị H.

- Về con chung: Ông Trương Văn P và bà Nguyễn Thị H có 03 người con chung tên Trương Hoài N, sinh năm 1988; Trương Thanh H1, sinh năm 1990; Trương Thanh C, sinh năm 1992. Cả 03 người con đều đã trưởng thành, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét.

- Về án phí sơ thẩm: Ông Trương Văn P phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí ông P đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009160 ngày 12/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng. Ông Trương Văn P đã nộp xong.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 13/04/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về