Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 14/2021/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 13 tháng 01 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 409/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 11 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 655/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị H, sinh năm: 1980, cư trú: Ấp Đ, xã Q, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Lê Văn P, sinh năm: 1977, cư trú: Ấp Đ, xã Q, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà H có mặt, ông P vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/10/2020 cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Huỳnh Thị H trình bày: Hôn nhân của bà và ông P là do tự tìm hiểu, yêu thương nhau được hai bên gia đình đồng ý, đứng ra tổ chức lễ cưới vào năm 2000, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q. Sau khi kết hôn sống tại Q, cuộc sống cũng tương đối ổn định đến năm 2017 thì mâu thuẫn phát sinh. Nguyên nhân là do ông P không chăm lo làm ăn, gây ra nợ nần lên đến vài trăm triệu do đánh tài xỉu, ông P sợ nợ bỏ đi cắt dứt liên lạc với vợ con nên tôi cố gắng vay mượn của họ hàng thanh toán nợ để ông có thể trở về với vợ con, tuy nhiên thời gian qua đi ông P không về thăm con dù khoản nợ tôi đã thanh toán gần hết.

Đến khoảng tháng 5/2020, bà có nộp đơn đến Tòa án yêu cầu ly hôn với ông P, hay tin ông có liên lạc về hàn gắn tình cảm nên bà quyết định rút lại đơn khởi kiện. Tuy nhiên sau đó ông không thay đổi, bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, có quay về chung sống cũng không có hạnh phúc nên bà quyết định ly hôn với ông Phát.

Về con chung: Có 02 con chung tên Lê Thị Thùy D, sinh năm 1999 đã trưởng thành tự lập và Lê Hoài P, sinh ngày 11/11/2006, hiện do bà H chăm sóc. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn bà H yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung và không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết Theo văn bản ghi nhận ý kiến của em Lê Hoài P ngày 23/11/2020 trình bày: Cháu là con ruột của bà H và ông P, hiện nay đang học lớp 9 trường trung học cơ sở Q. Trong quá trình chung sống cha mẹ thường xuyên tranh cãi, hiện nay không còn chung sống nữa nên mẹ quyết định xin ly hôn.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông Lê Văn P theo quy định nhưng ông P không có mặt theo các thông báo của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của bà H – ông P để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Chứng cứ mà Tòa án thu thập được:

Theo biên bản xác minh ngày 30/11/2020 hiện ông Lê Văn P không có ở nhà do đi làm ăn xa nhưng hộ khẩu của ông Phát vẫn ở tại ấp Đ, xã Q.

Tại biên bản xác minh ngày 30/11/2020 bà Huỳnh Thị N – hàng xóm của bà H và ông P cho biết: Quá trình bà H và ông P chung sống nhiều lần xảy ra tranh cãi, gia đình và hàng xóm khuyên ngăn nhưng không có chuyển biến. Đến khoảng cuối năm 2019 thì ông P bỏ đi, bà H tìm cách liên lạc nhưng không được. Gia đình hai bên bỏ mặt để ông bà tự giải quyết với nhau, bà H nay đã hết tình cảm nên quyết định ly hôn.

Tại phiên tòa, bà H bảo lưu ý kiến. Riêng ông P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Huỳnh Thị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Văn P.

Đồng thời, ông P có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Phú. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

Về sự vắng mặt của đương sự: Ông P được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông P theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa bà H và ông P có đăng ký kết hôn theo quy định nên làm phát sinh giá trị pháp lý theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Xét yêu cầu của bà H xin ly hôn với ông P, Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa bà H và ông P từ năm 2017 đến nay dù bà H nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng không được. Ông P bỏ đi thể hiện việc không đồng ý tiếp tục chung sống với bà, đồng thời ban đầu gia đình hai bên đã hàn gắn đến nay bỏ mặt để ông bà tự giải quyết. Lời trình bày của bà H phù hợp với nội dung xác minh của Tòa án tại đại phương. Xét thấy mâu thuẫn của bà H và ông P không thể hàn gắn nên Hội đồng xét xử chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà H theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Bà H và ông P có Có 02 con chung tên Lê Thị Thùy D, sinh năm 1999 và Lê Hoài P, sinh ngày 11/11/2006, lời khai trên phù hợp với bản sao giấy khai sinh số 230 ngày 24/8/2004 và số 191 ngày 17/11/2006 của Ủy ban nhân dân xã Q, cháu D trưởng thành tự lập, cháu P hiện do bà H chăm sóc.

Xét yêu cầu về con chung sau khi ly hôn của bà H được tiếp tục nuôi con chung sau khi ky hôn Hội đồng xét thấy: Từ khi ly thân đến nay cháu P được bà H chăm sóc, tình cảm mẹ - con gắn bó, việc thay đổi chỗ ở, hoàn cảnh sống đột ngột sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sự phát triển của các cháu sau này. Quan trọng hơn, cháu P có nguyện vọng được tiếp tục sống với bà H, đồng thời ông P hiện cũng đang đi làm xa không có mặt ở địa phương.

Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy cần tiếp tục giao cháu P cho bà H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Cháu D đã trưởng thành và sống tự lập nên bà không yêu cầu.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho bà H biết: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên bà H không yêu cầu ông P cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của bà H.

Hội đồng xét xử giải thích cho các đương sự biết: Bà H cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về án phí: Bà H là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình. Ông P không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Huỳnh Thị H - Về hôn nhân: Bà Huỳnh Thị H được ly hôn với ông Lê Văn P.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 206 ngày 08/10/2003 của Ủy ban nhân dân xã Q mang tên ông Lê Văn P và bà Huỳnh Thị H không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Bà Huỳnh Thị H được tiếp tục nuôi cháu Lê Hoài P, sinh ngày 11/11/2006, công nhận tự nguyện của bà H không yêu cầu ông Phát cấp dưỡng nuôi con.

Bà H cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về án phí: Bà Huỳnh Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, được chuyển từ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà đã nộp theo biên lai thu số 0004898 ngày 02/11/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (bà H đã nộp đủ).

- Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 13/01/2021), bà H được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn này đới với ông P được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tai nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2021/HNGĐ-ST ngày 13/01/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn

Số hiệu:14/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về