Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BÌNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 21 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 327/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 38/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trương Triệu V, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Tổ 0, ấp 1, xã 2, huyện 4, tỉnh An Giang (Vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Mã Kim A, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Ấp 6, xã 3, huyện 5, tỉnh Đồng Tháp (Vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 15/10/2020, Biên bản phiên họp ngày 08/12/2020, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Trương Triệu V trình bày:

Anh Trương Triệu V và chị Mã Kim A do mai mối nên tổ chức đám cưới vào năm 2017. Sau đó, thì đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã 2, huyện 4, tỉnh An Giang vào ngày 08/6/2018. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện không bị ai cưỡng ép hay đe dọa.

Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng có hạnh phúc, nhưng đôi lúc cũng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm. Khoảng năm 2019 thì mâu thuẫn càng nhiều, bất đồng ý kiến, tính tình không hợp nhau, không hòa hợp trong cuộc sống, thường hay cãi vã. Vợ chồng cố gắng tạo lập gia đình hạnh phúc nhưng không được. Hiện nay, vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Anh chị đã sống ly thân từ ngày 07/15/2019 al cho đến nay. Từ khi ly thân đến nay anh, chị không hàn gắn tình cảm để cùng sống chung với nhau được.

Nay anh Trương Triệu V yêu cầu được ly hôn với chị Mã Kim A vì tình cảm không còn, không có khả năng đoàn tụ chung sống cùng nhau.

+ Về con chung: Anh Trương Triệu V và chị Mã Kim A có một con chung là Trương Trúc K, sinh ngày 15/5/2018. Hiện nay cháu Trương Trúc K đang sống với chị Mã Kim A.

Anh Trương Triệu V thống nhất giao cháu Trương Trúc K, sinh ngày 15/5/2018 cho chị Mã Kim A được tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên. Anh Trương Triệu V không cấp dưỡng nuôi con.

+ Về tài sản chung: Gồm 17 chỉ vàng 18kara (trong đó có 03 bộ vòng, 01 sợi dây chuyền và 01 bông tai) là vàng cưới của hai vợ chồng. Hiện nay toàn bộ số vàng do chị Mã Kim A đang quản lý, sử dụng. Anh Trương Triệu V yêu cầu chia ½ tài sản chung. Anh Trương Triệu V nhận 09 chỉ vàng 18kara. Tại phiên họp ngày 08/12/2020 anh Trương Triệu V xin rút lại phần yêu cầu chia tài sản chung, anh Trương Triệu V không yêu cầu chia tài sản chung. Nếu sau này có tranh chấp thì sẽ khởi kiện trong vụ án khác.

+ Về nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Mã Kim A không có ý kiến trình bày.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, cần phê phán rút kinh nghiệm.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trương Triệu V: Cho anh Trương Triệu V được ly hôn với chị Mã Kim A; Giao cháu Trương Trúc K cho chị Mã Kim A được quyền nuôi dưỡng đến khi thành niên. Về tài sản chung: Nếu sau này có tranh chấp thì giải quyết trong vụ án khác. Về nợ chung: không có, nên không xem xét, giải quyết.

Tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án gồm:

- Đơn khởi kiện 15/10/2020 của anh Trương Triệu V.

- Giấy chứng nhận kết hôn giữa anh Trương Triệu V và chị Mã Kim A.

- Trích lục khai sinh của Trương Trúc K, sinh ngày 15/5//2018.

- Giấy chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu của anh Trương Triệu V.

- Đơn xin xác nhận nơi cư trú của người bị kiện.

- Đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 07/12/2020 của anh Trương Triệu V.

- Đơn xin vắng mặt.

- Biên bản xác minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Theo yêu cầu khởi kiện của anh Trương Triệu V và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật đang tranh chấp là tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Chị Mã Kim A cư trú tại ấp 6, xã 3, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Anh Trương Triệu V vắng mặt có đơn xin xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Trương Triệu V là đúng theo quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ngày 11 tháng 12 năm 2020 Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 12 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 38/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2020 vụ án được xét xử vào lúc 08 giờ 30 ngày 21 tháng 01 năm 2021 bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử đã tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Mã Kim A là phù hợp.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có tiến hành thu thập chứng cứ, nên thuộc trường hợp Viện kiểm sát tham gia theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Anh Trương Triệu V và chị Mã Kim A được hai bên gia đình tổ chức đám cưới vào năm 2017. Sau đó đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã 2, huyện 4, tỉnh An Giang vào ngày 08/6/2018. Việc anh chị kết hôn là tự nguyện, không bị ai cưỡng ép hay lừa dối kết hôn. Việc kết hôn giữa anh Trương Triệu V và chị Mã Kim A là đúng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét thấy, vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Trương Triệu V xác định: Trong thời gian anh Trương Triệu V và chị Mã Kim A chung sống với nhau thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng ý kiến, tính tình không hợp nhau, không hòa hợp trong cuộc sống, vợ chồng hay cãi vã. Vợ chồng cố gắng tạo lập gia đình hạnh phúc nhưng không được. Hiện nay, vợ chồng không còn tình cảm với nhau. Anh chị đã sống ly thân từ ngày 07/5/2019al cho đến nay. Từ khi ly thân đến nay, anh chị không có hàn gắn, mỗi người đều có cuộc sống riêng. Điều này chứng minh, hôn nhân giữa anh Trương Triệu V và chị Mã Kim A đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình quy định “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn, nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thề kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Do đó chấp nhận yêu cầu ly hôn của của anh Trương Triệu V đối với chị Mã Kim A là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Xét thấy, từ lúc anh Trương Triệu V và chị Mã Kim A ly thân cho đến nay, cháu Trương Trúc K, sinh ngày 15/5/2018 sống với chị Mã Kim A. Anh Trương Triệu V thống nhất giao cháu Trương Trúc K, sinh ngày 15/5/2018 cho chị Mã Kim A được tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên. Để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần cho cháu. Đồng thời, để tránh việc thay đổi môi trường sống của cháu. Nên cần tiếp tục giao cháu Trương Trúc K, sinh ngày 15/5/2018 cho chị Mã Kim A được tiếp tục nuôi dưỡng đến khi thành niên. Chị A trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không cản trở anh V không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con là phù hợp với các Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Trương Triệu V không cấp dưỡng nuôi con, nhưng không có ý kiến của chị Mã Kim A. Nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này; nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác.

[2.4] Về tài sản chung: Theo đơn khởi kiện anh Trương Triệu V trình bày anh chị có tài sản chung gồm 17 chỉ vàng 18kara (trong đó có 03 bộ vòng, 01 sợi dây chuyền và 01 bông tai) là vàng cưới của anh chị. Hiện nay toàn bộ số vàng do chị Mã Kim A đang quản lý, sử dụng. Anh Trương Triệu V yêu cầu chia ½ tài sản chung. Anh Trương Triệu V nhận 09 chỉ vàng 18kara. Tại đơn xin rút một phần yêu cầu khởi kiện ngày 07/12/2020 của anh Trương Triệu V và tại phiên họp ngày 08/12/2020 anh Trương Triệu V xin rút lại phần yêu cầu chia tài sản chung nêu trên, anh Trương Triệu V không yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng, nhưng không có ý kiến của chị Mã Kim A, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này, nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác. Đồng thời, đình chỉ phần yêu cầu chia tài sản chung nêu trên;

[2.5] Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Trương Triệu V xác định anh và chị Mã Kim A không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nhưng không có ý kiến của chị Mã Kim A, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này; nếu sau này có phát sinh tranh chấp sẽ được xem xét, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí: Anh Trương Triệu V phải chịu án phí về hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với quy định pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, 228, 238, Điều 266, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 69, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trương Triệu V.

- Về hôn nhân: Anh Trương Triệu V được ly hôn với chị Mã Kim A.

- Về con chung: Giao cháu Trương Trúc K, sinh ngày 15/5/2018 cho chị Mã Kim A được quyền nuôi dưỡng đến khi thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

Anh Trương Triệu V có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai cản trở. Chị Mã Kim A cùng các thành viên gia đình không cản trở anh Trương Triệu V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về tài sản chung: Đình chỉ phần yêu cầu chia tài sản chung của anh Trương Triệu V đối với 17 chỉ vàng 18kara. Anh Trương Triệu V có quyền khởi kiện trong vụ án khác.

- Về nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về án phí:

Anh Trương Triệu V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 1.500.000đ (bằng chữ: Một triệu năm trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số BI/2019/0006782 ngày 15/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp.

Anh Trương Triệu V được nhận lại số tiền 1.200.000đ (bằng chữ: Một triệu, hai trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Mã Kim A không phải chịu án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 04/2021/HNGĐ-ST ngày 21/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, nuôi con

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Bình - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về