Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 08 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 306/2020/TLST- HNGĐ, ngày 13 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình – Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 400/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 15 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 206/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 22 tháng 12 năm 2020, giữa các đương sự.

Nguyên đơn: Bùi Thị Kim H, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Số nhà A, đường LVP, Tổ B, Ấp C, xã MT, thành phố CL, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Nguyễn Văn N, sinh năm 1974.

Địa chỉ: Số nhà A, đường LVP, Tổ B, Ấp C, xã MT, thành phố CL, tỉnh Đồng Tháp.

(Chị H có mặt, anh N vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa nguyên đơn Bùi Thị Kim H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh N kết hôn năm 2002, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TM, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 26/02/2004.

Thời gian đầu vợ chồng sống chung hạnh phúc, thời gian sau phát sinh nhiều mâu thuẫn, đến đầu năm 2019 anh N nhiều lần khủng bố tinh thần hai mẹ con chị H mỗi khi anh N uống rượu, cuối năm 2019 anh N còn nhiều lần cầm dao đe dọa tính mạng chị H trong khi chị H không chủ động tự vệ được. Điều này gây rối loạn tâm sinh lý, khủng hoảng tinh thần dẫn chị H thường xuyên bị mất ngủ và gặp ác mộng. Chị H và anh N ly thân từ năm 2019 đến nay, khoảng thời gian ly thân vợ chồng không thể hàn gắn vì anh N không những không sửa đổi tính tình mà còn đe dọa tính mạng chị H ngày càng nhiều hơn, chị H không yêu cầu xử lý hình sự đối với hành vi đe dọa của anh N.

Nay chị H yêu cầu được ly hôn với anh N.

Về con chung: Chị H và anh N có một con chung tên Nguyễn Hoàng K, sinh ngày 22/8/2004. Hiện nay con chung đang sống với chị H. Sau khi ly hôn chị H yêu cầu được nuôi con chung tên Nguyễn Hoàng K. Chị H không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

- Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn là Nguyễn Văn N không có văn bản ý kiến nộp cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện chị H khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là Nguyễn Văn N và yêu cầu nuôi con chung đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn là Nguyễn Văn N có địa chỉ tại số A, đường LVP, Tổ B, Ấp C, xã MT, thành phố CL, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyển giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng bị đơn là Nguyễn Văn N vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh N tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TM, huyện LV, tỉnh Đồng Tháp và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 24, ngày 26/02/2004 là hôn nhân hợp pháp.

Theo chị H trình bày, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến đầu năm 2019 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm, anh N thường xuyên uống rượu về nhà đe dọa, đánh chị H, tình cảm vợ chồng đến mức trầm trọng không thể hàn gắn được, vợ chồng không còn tình cảm, không còn yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Tại phiên tòa, chị H cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh N.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh N không có văn bản ý kiến nộp cho Tòa án, thể hiện anh N không quan tâm đến tình cảm vợ chồng.

Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn giữa chị H và anh N đã trầm trọng, đời sống hôn nhân không còn hạnh phúc, không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng không còn tình cảm, không còn yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình quy định khi đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án giải quyết cho ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H về việc yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

[2.2] Về con chung: Chị H và anh N có một con chung tên Nguyễn Hoàng K, sinh ngày 22/8/2004. Hiện nay con chung đang sống với chị H.

Xét thấy, con chung đang sống với chị H đã ổn định, ý kiến của con chung là cháu Nguyễn Hoàng K có nguyện vọng được sống với chị H, trong quá trình thu thập chứng cứ, anh N không có ý kiến về con chung. Căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H về việc yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

Việc rút một phần yêu cầu của chị H là tự nguyện nên Hội đồng xét xử chấp nhận và Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu của chị H về việc yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về nợ chung: Không có nên không xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Bùi Thị Kim H phải chịu 300.000 đồng án phí về hôn nhân theo khoản 2 Điều 147 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Anh Nguyễn Văn N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 244 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là Bùi Thị Kim H.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Kim H được ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

- Về con chung: Chị Bùi Thị Kim H được nuôi con chung là cháu Nguyễn Hoàng K, sinh ngày 22/8/2004. Hiện nay con chung đang sống với chị H.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc ảnh hưởng xấu đến việc đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu của chị H vể việc yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không xem xét.

- Về nợ chung: Không xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Bùi Thị Kim H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân, nhưng được khấu trừ vào số tiền đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai số 0007219, ngày 12/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, chị H đã nộp xong. Anh Nguyễn Văn N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kề từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 01/2021/HNGĐ-ST ngày 08/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn, nuôi con

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về