Bản án 14/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ, TỈNH HÀ NAM

BẢN ÁN 14/2020/HS-ST NGÀY 14/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 07/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 01 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo:

Kiều Văn T, sinh năm 1999, tại Hà Nội; nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Thôn TV, xã ĐB, huyện ƯH, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Kiều Văn T1, sinh năm 1978 và bà Dư Thị H, sinh năm 1979; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01 tháng 12 năm 2019 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam; có mặt.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Kiều Văn T1, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn TV, xã ĐB, huyện ƯH, thành phố Hà Nội; vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Đỗ Đình H, sinh năm 1990; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau.

Khoảng 07 giờ ngày 01/12/2019, Kiều Văn T điều khiển xe mô tô từ nhà đến khu vực cổng trường Đại học Công nghiệp thuộc thôn 1, xã Phù Vân, thành phố Phủ Lý thì gặp bạn nghiện mới quen tên là Kiên khoảng 30 tuổi. Kiên hỏi T “Cho vay năm chục lấy hàng chơi” (T hiểu ý Kiên rủ góp tiền mua ma túy cùng sử dụng). T đồng ý lấy trong người ra 50.000 đồng đưa cho Kiên, Kiên cầm tiền rồi bảo T đứng đợi để đi lấy hàng. Kiên điều khiển xe mô tô của T đi một lúc sau quay lại đưa cho T một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, T mở bao thuốc thấy bên trong có một gói giấy bạc màu vàng và cầm ở tay phải. Kiên chở T đến khu vực tổ 9, phường Trần Hưng Đạo thì bị tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Phủ Lý yêu cầu kiểm tra. Kiên xuống xe bỏ chạy thoát, T tự giác giao nộp cho lực lượng Công an 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có 01 gói giấy bạc màu vàng chứa chất bột màu trắng dạng cục. T khai nhận đó là ma túy của T cất giữ để sử dụng.

- Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục (niêm phong trong phong bì ký hiệu QT01); 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu đen và 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki BKS 90F7-8588.

Ngày 02/12/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý thi hành Lệnh khám xét khẩn cấp đối với chỗ ở của Kiều Văn T tại thôn TV, xã ĐB, huyện ƯH, thành phố Hà Nội. Quá trình khám xét không thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan.

Tại bản kết luận giám định số 209/PC09-MT ngày 04/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam, kết luận: “Mẫu bột màu trắng dạng cục trong phong bì ký hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,150 gam, loại Heroine”.

Tại bản cáo trạng số 13/CT-VKS-PL ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam đã truy tố Kiều Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Kiều Văn T theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng, không có ý kiến bổ sung hoặc thay đổi gì đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Kiều Văn T mức án từ 24 đến 30 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định cùng bao gói và một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng; trả lại Kiều Văn T một điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen; trả lại ông Kiều Văn T1 một xe máy nhãn hiệu Suzuki, màu sơn xanh, BKS 90F7-8588.

- Bị cáo Kiều Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình cơ bản như bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo không tranh luận, không bào chữa và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với người tham gia tố tụng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá về tội danh: Tại phiên toà bị cáo Kiều Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, bản kết luận của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 8 giờ 30 phút, ngày 01/12/2019 tại tổ 9, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Phủ Lý, Kiều Văn T cất giấu trái phép 0,150 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng thì bị lực lượng Công an thành phố Phủ Lý phát hiện bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo Kiều Văn T đã phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý truy tố bị cáo là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về nhân thân: bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà hôm nay và tại cơ quan điều tra bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Đánh giá về hình phạt:

- Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó không những gây ảnh hưởng đến sức khỏe của bị cáo mà còn xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố Phủ Lý, đồng thời là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội, tội phạm nguy hiểm khác gây bất bình sâu sắc trong quần chúng nhân dân. Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc khi lượng hình vừa để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích vừa có tác dụng phòng ngừa chung trong cộng đồng.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, không có mục đích kiếm lời, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Xử lý vật chứng:

- Đối với toàn bộ số ma túy cùng bao gói và một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng thu giữ của Kiều Văn T cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Suzuki BKS 90F7-8588, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định là tài sản hợp pháp của ông Kiều Văn T1 (là bố bị cáo). Ông T1 cho T mượn xe làm phương tiện đi lại nhưng không biết T sử dụng xe đi mua ma túy sử dụng nên cần trả lại chiếc xe mô tô cho ông T1.

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia vỏ màu đen là tài sản hợp pháp của T không liên quan đến vụ án, nên cần trả lại cho Kiều Văn T, song giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[7] Các tình tiết khác: Đối với người thanh niên tên là Kiên, khoảng 30 tuổi, T khai là người mua ma túy và đưa cho T cất giữ để sử dụng, nhưng T không biết họ tên đầy đủ và địa chỉ của người này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã điều tra, xác minh song không có kết quả. Ngoài lời khai của T không còn tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ Điều 106; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ Luật Phí và Lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố bị cáo Kiều Văn T phạm tội: "Tàng trữ hái phép chất ma tuý".

Xử phạt bị cáo Kiều Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2019.

[2] Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong số: 209/PC09-MT mặt trước phong bì ghi mẫu vật hoàn trả QT01 tại mép dán mặt sau có hai chữ ký và hai dòng chữ ghi: Đỗ Thị Hồng Hạnh, Trần Thị Thu Hiền, một chữ ký đóng dấu chức danh trưởng phòng Thượng tá Nguyễn Đại Hữu và ba dấu tròn đỏ của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Nam và 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Trả lại cho ông Kiều Văn T1 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu Suzuki, màu sơn xanh (xe đã cũ) BKS 90F7-8588, có số máy: E432-VN184829, số khung: RLSBE49L050184829.

- Trả lại cho Kiều Văn T01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, vỏ màu đen song giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

(Tình trạng như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 16/01/2020 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý)

[3] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Kiều Văn T phải nộp 200.000đ.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2020/HS-ST ngày 14/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về