Bản án 14/2018/HSST ngày 08/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 14/2018/HSST NGÀY 08/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2018/HSST, ngày 07 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo:

Đỗ Đức Ngh, sinh năm 1986.

HKTT: Khu Đ, phường V, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Đức Đ, sinh năm 1958 và bà Đỗ Thị H (Đã chết); Có vợ là Lê Thị Gi (Đã ly hôn); Tiền sự: Không.

Nhân thân: - Ngày 22/3/2007 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 21 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Miễn thi hành án dân sự ngày 24/01/2014.

- Ngày 23/7/2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Ngày 29/7/2016 được Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa miễn trách nhiệm hình sự về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” do thay đổi quy định của pháp luật về giám định.

- Ngày 14/8/2018 bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo, giữ nguyên hình phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” của Bản án số 113 ngày 31/5/2018 của TAND thành phố Thanh Hóa.

Tiền án: Ngày 21/7/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 14 tháng 06 ngày tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Đã chấp hành xong hình phạt tù.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 01/8/2018 đến ngày 04/8/2018 chuyển tạm giam. Đến ngày 04/8/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Do bị cáo ốm phải đi cấp cứu).

Ngày 20/11/2018 bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan thi hành án tỉnh Thanh Hóa. Hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15h40 phút ngày 01/8/2018, Công an phường Đ, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ tuần tra trên tuyến đường H, phường Đ, thành phố H thì phát hiện Đỗ Đức Ngh ngồi trên xe taxi cùng Nguyễn Thùy L có biểu hiện nghi vấn nên đã tiền hành dừng xe kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác đã thu giữ trong túi quần đùi phía sau bên phải của Ngh có 01 gói nhỏ bằng nilong màu đen, KT (1x1,5)cm, bên trong là giấy trắng có dòng kẻ chứa chất cục bột màu trắng. Công an phường Đ đã lập biên bản phạm tội quả tang, thu giữ tang vật và chuyển vụ việc cho Cơ quan điều tra Công an thành phố H.

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Đức Ngh khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy nên khoảng 15h15 phút ngày 01/8/2018, Ngh bắt taxi của hàng 36 đi cùng bạn gái tên Nguyễn Thùy L. Trên đường đi, Thùy L hỏi đi đâu, Ngh nói “Xuống đây có tý việc”. Khi đến ngã ba đầu đường H, phường Đ, Ngh nói dừng xe để đi mua thẻ điện thoại và nói L ngồi trên xe đợi. Ngh đi bộ vào ngõ 27/533 đến nhà Ch và gọi “Anh Ch ơi” thì có một người thanh niên tên M đi ra. Ngh nói bán cho Ngh một gói trắng rồi đưa 200.000đ. M cầm tiền và đưa cho Ngh 01 gói nilon màu đen. Ngh cầm gói ma túy bỏ vào túi quần đùi rồi đi ra xe đang đợi. Khi xe đi đến cầu C thì bị Công an dừng xe kiểm tra và thu giữ tang vật.

Tại kết luận giám định số 1638/MT-PC09 ngày 03/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: Chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,112g, loại Heroine.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh, triệu tập Trần Văn Ch để điều tra làm rõ người bán ma túy cho Ngh. Quá trình điều tra Ch khai ngày 01/8/2018 Ch cùng gia đình có mặt ở nhà, không có ai tên M đến nhà Ch, Ch cũng không biết ai là Đỗ Đức Ngh.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Ngh, Ngh khai không biết tên, tuổi, địa chỉ của người tên M nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Trong quá trình điều tra, Nghĩa đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 20/10/2018, Cơ quan thi hành án tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định truy nã đối với Ngh để bắt thi hành án.

Ngày 03/11/2018, CSĐT Công an thành phố H ra Quyết định truy nã đối với Ngh về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xảy ra ngày 01/8/2018 theo Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 330 ngày 03/8/2018.

Ngày 05/11/2018, Cơ quan CSĐT Công an thành phố H ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự và tạm đình chỉ bị can đối với Ngh.

Ngày 20/11/2018, Công an phường Đ, thành phố H đã bắt Đỗ Đức Ngh theo Quyết định truy nã của Cơ quan thi hành án tỉnh Thanh Hóa.

Cùng ngày 20/11/2018, Cơ quan CSĐT Công an thành phố H ra Quyết định đình nã, phục hồi điều tra vụ án, bị can đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xảy ra ngày 01/8/2018. Quá trình phục hồi điều tra vụ án, Cơ quan CSĐT Công an thành phố H không nhận được thông báo nào về việc Đỗ Đức Ngh phạm tội mới trong quá trình bỏ trốn.

Tại cáo trạng số 02/CT-VKS, ngày 06/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thanh Hóa truy tố Đỗ Đức Ngh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Đỗ Đức Ngh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Đức Ngh mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù; Tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự phúc thẩm số 153/2018 ngày 14/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Đức Nghĩa thừa nhận: Vào khoảng 15h40 phút ngày 01/8/2018, Công an phường Đ, thành phố H đã phát hiện, bắt quả tang Đỗ Đức Ngh đang tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Theo kết luận giám định tang vật thu giữ trong người Ngh là ma túy trọng lượng 0,112g, loại Heroine.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện Kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Đỗ Đức Ngh phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những tệ nạn nguy hiểm cho xã hội, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của nhiều gia đình. Ma túy đã làm kiệt quệ về sức khỏe và tài sản, là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm, gây lan truyền căn bệnh HIV/ADS. Do nghiện ma túy nên bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất gây nghiện của Nhà nước và còn gây mất trật tự trị an xã hội. Ngoài việc phải chấp hành hình phạt của bản án này, bị cáo Ngh còn phải chịu tổng hợp hình phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù của Bản án hình sự phúc thẩm số 153/2018/HS-PT ngày 14/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa (Quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự ).

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo có một tiền án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý. Vì vậy bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị truy tố và xét xử nhiều lần nhưng vẫn có thái độ coi thường pháp luật, tiếp tục có hành vi vi phạm. Sau khi phạm tội, bị cáo đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra phải ra Quyết định truy nã, gây khó khăn trong công tác điều tra. Vì vậy phải xử lý nghiêm nhằm giáo dục và phòng ngừa chung.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Với tính chất vụ án nghiêm trọng, với nhân thân của bị cáo xét cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Do bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,100g loại Heroine (còn lại sau giám định) là mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật . Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Đức Ngh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Đỗ Đức Ngh 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù của Bản án hình sự phúc thẩm số 153/2018/HS-PT ngày 14/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 48 (Bốn mươi tám) tháng tù nhưng được trừ đi 03 ngày tạm giữ (Từ 01/8/2018 đến 04/8/2018).

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành bản án (Ngày 20/11/2018).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa 0,100g loại Heroine (còn lại sau giám định).

Hiện số tang vật và tài sản đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 50/THA ngày 10/12/2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H với Công an thành phố H.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14.

Bị cáo Đỗ Đức Ngh phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

241
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HSST ngày 08/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về