Bản án 14/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 07/02/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 02 năm 2018 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2018/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Ngọc H, sinh năm: 1992, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: số A đường C, Phường H, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc:Kinh; giới tính: nam; tôn giáo:Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Trần Thị L; Chưa có vợ; tiền sự: Từ 5/2015 đến 11/2016 Tòa án nhân dân quận Gò vấp áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 25/5/2010,  Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”(Bản án số 102/2010/HSST). Ngày 18/02/2014,  Tòa án nhân dân thành phố Biên hòa xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 77/2014/HSST).  Bị bắt tạm giam ngày: 04/8/2017; (Có mặt).

Bị hại: - Anh Võ Minh T, sinh năm: 1999; trú tại: số Z đường V, Phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Chổ ở: W đường A, Phường N, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

 Ông Võ Đỗ N, sinh năm: 1967; HKTT: số số Z đường V, Phường B, quậnT, Thành phố Hồ Chí Minh; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 ngày 07/4/2017 Lê Ngọc H đi bộ ngang nhà số W đường A, Phường N, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh thấy 01 chiếc xe hiệu Yamaha Mio Ultimo biển số 59S1 – 106.74 của anh Võ Minh T đang dựng trước nhà không người trông coi, H liền nảy sinh ý định trộm cắp nên lén đến dùng đoãn mang theo bẻ ổ khóa nổ máy rồi tẩu thoát, đến 15 giờ 30 cùng ngày anh T thức dậy phát hiện mất chiếc xe nhưng không có trình báo cho Công an.

Ngày 26/4/2017 Lê Ngọc H đang điều khiển chiếc xe trộm cắp của anh Võ Minh T chở Nguyễn Anh T lưu thông trên đường O, quận T thì bị Công an kiểm tra hành chính đưa về trụ sở Công an Phường 14, quận T làm việc. Tại đây H khai nhận chiếc xe là do H trộm cắp ở Phường N, quận G, Công an quận T đã chuyển giao H cùng tang vật cho Công an Phường 5, quận G xử lý, trong lúc làm việc tại trụ sở Công an Phường H đã lén mở còng tay và tẩu thoát. Riêng Nguyễn Anh T không liên quan gì đến việc trộm cắp chiếc xe của anh Võ Minh T nên không xử lý.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 125/KL ngày 26/5/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận: xe máy Yamaha  Mio Ultimo  biển  số  59S1–106.74 số khung RLCM23B309BY- 051939, số máy 23B-051939 do công ty Yamaha Việt Nam sản xuất đã qua sữ dụng theo giá thị trường thời điểm ngày 07/4/2017 trị giá là 8.000.000 đồng.

Ngày 09/6/2017 Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam đối với Lê Ngọc H để điều tra nhưng không bắt được. Ngày 09/8/2017 Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã và tạm đình chỉ đối với Lê Ngọc H. Ngày 04/8/2017 H bị Công an quận T bắt khởi tố về hành vi trộm cắp tài sản. Ngày 17/10/2017 Cơ quan Công an quận G ra quyết định phục hồi điều tra đối với Lê Ngọc H.

Tại Cơ quan điều tra Lê Ngọc H đã khai nhận hành vi phạm tội .

Vật chứng thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh số Imel 353678/07/712406/9, 01 điện thoại Nokia 1200 (thu giữ của Hiếu).

-01 xe máy Yamaha Mio Ultimo biển số 59S1 – 106.74 số khung RLCM23B309BY-051939, số máy 23B-051939. Qua xác minh do ông Võ Đỗ N (cha của anh Võ Minh T) đứng tên đăng ký, ông N giao xe cho anh Võ minh T sử dụng thì bị mất, cơ quan điều tra đã trả xe lại cho anh Võ Minh

Tại bản cáo trạng số 15/CTr-VKS, ngày 29/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Lê Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng khỏan 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có hiệu lực thi hành;

Áp dụng Điều 46; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017 và khoản 1, điểm a,c khoản 2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Xử phạt bị cáo Lê Ngọc H từ 02 năm đến 02 năm 6 tháng tù. Buộc bị cáo tiếp tục chấp hành hình phạt 02 (hai) năm tù của bản án số 235/2017/HSST, ngày 21/12/2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai bản án đề nghị xử phạt bị cáo từ 04 năm 04 (bốn) năm đến 04 năm 6 tháng tù.

- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo 02 chiếc điện thoại di động.

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Lê Ngọc H đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và  người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Lê Ngọc H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 138 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị hại, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm tài sản rất táo bạo và liều lĩnh, hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được Pháp luật và Nhà nước bảo hộ. Mặt khác, còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn tiêu xài phục vụ cho những nhu cầu cá nhân của mình mà không phải thông qua lao động chân chính bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật, xét nhân thân bị cáo xấu đã có 02 lần bị xử lý về hành vi trộm cắp tài sản và cướp giật tài sản (đã được xóa án), 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị đưa đi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Trong quá trình điều tra bị cáo đã trốn khỏi địa phương gây khó khăn cho Cơ quan điều tra. Do đó, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm giúp cho bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác. Hội đồng xét xử xét thấy hiện bị cáo đang chấp hành hình phạt 02 năm tù của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh (bản án số 235/2017/HSST, ngày 21/12/2017) do đó khi lượng hình cần thiết áp dụng Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 1999 để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 138 của Bộ luật Hìnhsự, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị hại anh Võ Minh T vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện anh đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, hiện không thắc mắc hay khiếu nại gì nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với xe máy Yamaha Mio Ultimo biển số 59S1-106.74 số khung RLCM23B309BY-051939, số máy 23B-051939. Qua xác minh do ông Võ Đỗ N (cha của anh Võ Minh T) đứng tên đăng ký, ông N giao xe cho anh Võ Minh T sử dụng thì bị mất, cơ quan điều tra đã trả xe lại cho anh Võ Minh T. Hội đồng xét xử nhận thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật và không ảnh hưởng đến nội dung vụ án nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.

Đối với 02 chiếc điện thoại di động gồm: 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh số Imel 353678/07/712406/9, 01 điện thoại Nokia 1200 (thu giữ của Hiếu) là tư vật của H Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo H.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Ngọc H phạm tội “Trộm cắp Tài sản”

Căn cứ vào khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; khỏan 1 Điều 51; Điều 33 của Bộ luật Hình sự năm 1999;

Xử phạt bị cáo Lê Ngọc H 02 (hai) năm tù. Buộc bị cáo tiếp tục chấp hành hình phạt 02 (hai) năm tù của bản án số 235/2017/HSST, ngày 21/12/2017 của Tòa án nhân dân quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai bản án buộc bị cáo phải chấp hành 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/8/2017.

Áp dụng Điều 42 của Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 1, điểm a,c khoản2, khỏan 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh số Imel 353678/07/712406/9, 01 điện thoại Nokia 1200.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 667/PNK, ngày 11/12/2017 của Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

Bị cáo, có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

354
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:14/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/02/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về