Bản án 14/2018/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 14/2018/HS-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Trì - thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 11/2019/HSST ngày 14/02/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2019/QĐXXST - HS ngày 20/02/2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN HỒNG H, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Số 8 ngách 52 ngõ Trại Cá, phường T, quận HBT, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Viết H và bà Trần Thị N; Tiền án: 03 tiền án: Ngày 15/6/2007 Tòa án nhân dân quận HBT - thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Bản án số 183/2007/HSST, đã xóa án tích). Ngày 20/7/2007 Tòa án nhân dân quận HM - thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” buộc H phải chấp hành hình phạt 10 tháng tù của bản án số 183/HSST ngày 15/6/2017 của Tòa án nhân dân quận HBT, tổng hợp hình phạt của hai bản án là 34 tháng tù (Bản án số 249/2007/HSST, đã xóa án tích). Ngày 23/12/2011 Tòa án nhân dân quận Đ - thành phố Hà Nội xử phạt 32 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Bản án số 616/2011/HSST, đã xóa án tích); Tiền sự: 02 tiền sự năm 2002 (đã hết thời hiệu bị coi là xử lý hành chính). Ngày 25/3/2018, bị Công an quận TX xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác (chưa hết thời hiệu bị coi là xử lý hành chính); Danh chỉ bản số 0428 lập ngày 07/11/2018 tại Công an huyện T - thành phố Hà Nội; Bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/11/2018, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 08 giờ ngày 05/11/2018, Nguyễn Hồng H đi đến khu vực Ngã Tư S, quận Đ, Hà Nội để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây, H gặp và mua của 01 nam thanh niên tên V 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy H lấy một phần ra sử dụng, số ma túy còn lại H lấy một tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng gói lại rồi cho vào chiếc ví giả da màu đen và cất giữ trong cốp chiếc xe mô tô BKS 14P6 – 564x của H.

Khong 19 giờ 40 phút cùng ngày khi H đang đứng đợi khách đi xe ôm ở ngã tư KDT - TDH thì anh Phạm Văn L (sinh năm 1994; HKTT: xã T, huyện A, Hải Phòng) đến gặp và thuê H chở xuống khu vực LĐ, quận H, Hà Nội. H đồng ý và sử dụng chiếc xe mô tô BKS 14P6 – 564x để chở anh L như đã thỏa thuận.

Hi 20 giờ ngày 05/11/2018 tại đường NXY, xã T, huyện T, Hà Nội. Tổ công tác liên ngành 141 chốt Y29/141 - Công an thành phố Hà Nội đang làm nhiệm vụ phát hiện Nguyễn Hồng H đang điều khiển xe mô tô BKS 14P6 – 564x sau xe chở Phạm Văn L có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính. Quá trình kiểm tra, Tổ công tác phát hiện trong cốp xe mô tô BKS 14P6 – 564x có 01 chiếc ví bên trong có 01 tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng được gập gọn bên trong có chứa chất bột màu trắng. Tại chỗ, H khai nhận là ma túy của H cất giữ để sử dụng nên Tổ công tác đã phối hợp với Đồn công an CB - Công an huyện T lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ tang vật. Ngoài ra, cơ quan công an còn tạm giữ của H chiếc ví giả da màu đen và 01 xe mô tô BKS 14P6 – 564x.

Cùng ngày Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với chất bột màu trắng được gói bên trong tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng thu giữ của H. Tại bản kết luận giám định số 8597/KLGĐ - PC09 ngày 12/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói bằng tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,151 gam.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T: Nguyễn Hồng H khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Lời khai của H phù hợp với các tài liệu chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập được.

Đi với chiếc xe mô tô BKS 14P6 – 564x thu giữ của Hà, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của H dùng để sử dụng cá nhân, không liên quan đến việc H tàng trữ trái phép chất ma túy nên tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đi với 01 chiếc ví giả da màu đen thu giữ của H trong quá trình điều tra xác định đây là tài sản của H dùng để cất giấu ma túy nên tạm giữ để xử lý theo quy định của pháp luật.

Đi với anh Phạm Văn L, quá trình điều tra xác định anh L không liên quan đến việc H tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T không xử lý.

Đi với nam thanh niên đã bán ma túy cho H, H khai chỉ biết tên là Việt ngoài ra không biết thông tin gì khác, do đó Cơ quan điều tra đã tách phần hồ sơ liên quan đến thanh niên tên V này để tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý.

Bản cáo trạng số 11/CT - VKS - TT ngày 11/02/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Nguyễn Hồng H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà:

* Bị cáo Nguyễn Hồng H thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nêu trên, thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo về tội tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng. Khi được nói lời sau cùng bị cáo đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt do hoàn cảnh gia đình các bị cáo gặp nhiều khó khăn.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Bị cáo từ 18 đến 24 tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Tịch thu tiêu hủy: 0,134 gam Heroine thu giữ của bị cáo (trọng lượng còn lại sau khi giám định).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh của bị cáo: Xét lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu khác được thu thập hợp lệ trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định: Hồi 20 giờ ngày 05/11/2018 tại đường NXY, xã T, huyện T, Hà Nội khi Nguyễn Hồng H đang tàng trữ trái phép 01 gói bằng tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng được gập gọn bên trong có chứa chất bột màu trắng loại Heroine, khối lượng 0,151 gam thì bị tổ công tác Y29/141 - Công an thành phố Hà Nội phối hợp với Đồn công an CB - Công an huyện T phát hiện bắt quả tang và thu giữ tang vật. Hành vi của Nguyễn Hồng H đã phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố bị cáo ra trước Tòa án để xét xử theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước. Ma túy là chất gây nghiện huỷ hoại sức khoẻ con người, làm sói mòn đạo đức xã hội và là nguyên nhân gây ra các tội phạm hình sự khác, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Do đó, cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo. Để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm và bảo đảm trật tự trị an xã hội cần phải nghiêm trị, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo bị cáo và giáo dục phòng ngừa chung cho mọi người.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

[4] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo có 03 tiền án đã xóa án tích và 01 tiền sự chưa hết thời hiệu bị coi là xử lý hành chính, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu liên tục có hành vi vi phạm pháp luật cần xem xét khi quyết định hình phạt.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015: «Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng 500.000.000 đồng» . Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Tch thu tiêu hủy : 0,134 gam Heroin (trọng lượng còn lại sau khi giám định) hiện đang được lưu giữ tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hà Nội.

Đi với chiếc ví giả da màu đen thu giữ của bị cáo do bị cáo dùng để cất giấu ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đi với tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng bị cáo dùng để gói ma túy cần tịch thu sung công quỹ nhà nước.

Đi với chiếc xe mô tô BKS 14P6 – 564x thu giữ của H, quá trình điều tra xác định đây là tài sản của H dùng để sử dụng cá nhân, không liên quan đến việc H tàng trữ trái phép chất ma túy nên trả lại cho bị cáo.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của UBTV Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được kháng cáo bản án theo Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đi với anh Phạm Văn L, quá trình điều tra xác định anh L không liên quan đến việc H tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T không xử lý là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với nam thanh niên đã bán ma túy cho H, H khai chỉ biết tên là V ngoài ra không biết thông tin gì khác, do đó Cơ quan điều tra đã tách phần hồ sơ liên quan đến thanh niên tên V này để tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý là đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hồng H phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hồng H 18 (mƣời tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt quả tang 05/11/2018.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,134 gam Heroine (trọng lượng còn lại sau khi giám định) và 01 ví giả da màu đen thu giữ của bị cáo.

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước tờ tiền 1.000 đồng thu giữ của bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo chiếc xe máy BKS 14P6 – 564x, số khung 0005C6207Y066247, số máy: 5C62-066247.

Các vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T - thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/02/2019.

4. Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo : Căn cứ các điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 14/2018/HS-ST ngày 05/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:14/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về