TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN
BẢN ÁN 141/2019/HS-ST NGÀY 11/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 11/9/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 135/2019/TLST-HS ngày 19/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 144/2019/QĐXXST-HS ngày 29/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Quách Thành Tr; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1978, tại Điện Biên; Nơi đăng ký NKTT: Tổ 23, phường Mường Th, Thành phố Đ Biên Ph, tỉnh Điện Biên; chỗ ở: Bản Him L, phường Him L, Thành phố Điện Biên Ph, tỉnh Điện B; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quách Đình T - SN 1950 (Đã chết) và con bà Phan Thị L - SN 1950; Vợ, con: Lý Nhù D - SN 1985 (Đã ly hôn); Bị cáo sống như vợ chồng với Cà Thị Th - SN 1977 trú tại Bản Him L, phường Him L, Thành phố Điện Biên Ph, tỉnh Điện B, bị cáo có 3 con: Con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2016; gia đình bị cáo có 02 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ nhất; tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 19/4/2018 bị Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Ph xử phạt 09 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản", hiện chưa được xóa án tích, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 08/9/2009 bị Công an Thành phố Điện Biên Phủ xử phạt cảnh cáo. Ngày 10/11/2009 bị Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Ph xử phạt 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Ngày 23/6/2011 bị Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Ph xử phạt 06 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản", đều đã được xóa án tích; bị tạm giữ tạm giam từ ngày 15/4/2019 đến ngày xét xử, có mặt tại phiên tòa.
2. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Phan Thị L - SN 1950, vắng mặt không có lý do.
Trú tại: Tổ 23, phường Mường Thanh, Thành phố Điện Biên Ph, tỉnh Điện B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 15/4/2019, Quách Thành Tr một mình điều khiển xe gắn máy BKS 27AA-040.19 từ nhà đến đội 18, xã Thanh A, huyện Điện B để tìm mua Heroine về để sử dụng. Đến đoạn đường thuộc đội T, xã Thanh A, Tr đã gặp trao đổi và mua được 01 gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng miệng gói được quấn lại của một người đàn ông khoảng 30 tuổi (không biết tên địa chỉ) với giá 100.000 đồng. Mua xong Tr đã lấy một ít Heroine hít luôn ngay tại chỗ rồi gói số Heroine còn lại như cũ và lấy tờ tiền 2000 đồng ở túi quần bên trái gói bọc ngoài số Heroine rồi cất số Heroine vào túi đựng quần áo để ở trước xe máy. Khoảng 18 giờ cùng ngày khi Tr đang ngồi trên xe tại ven đường thuộc đội T, xã Thanh A, huyện Điện B thì bị tổ công tác Công an huyện Điện B phối hợp với Công an xã Thanh A phát hiện bắt quả tang thu giữ tại túi đựng quần áo của Tr 01 gói Heroine.
Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 22 giờ 10 phút ngày 15/4/2019 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Điện B đã xác định: Số cục bột màu trắng nghi Heroine có khối lượng 0,27 gam, trích mẫu gửi giám định 0,07 gam.
Tại Bản kết luận giám định số: 432/GĐ-PC09 ngày 23/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện B đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định thu giữ của Quách Thành Tr là Heroine. Không hoàn lại mẫu sau khi giám định.
Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Do cần có ma túy để sử dụng nên bị cáo đã đi mua ma túy bị bắt quả tang khi đang cất giấu 0,27 gamHeroine. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn thật thà khai báo.
Tại bản Cáo trạng số: 132/CT-VKSĐB ngày 18/7/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện B đã truy tố bị cáo về tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS năm 2015; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS, điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS: Xử phạt bị cáo Quách Thành Tr từ 18 đến 24 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 249/BLHS năm 2015.
Về vật chứng: Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, c Khoản 2 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,27 gam Heroine đã trích mẫu gửi giám định 0,07 gam không hoàn lại mẫu và 01 túi xách màu xanh có hai ngăn, các ngăn đều có khóa kéo dài, miệng túi có 02 dây xách, túi dài 50 cm, rộng 40 cm; tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 2.000 đồng.
Chấp nhận biên bản trao trả tài sản của ngày 29/5/2019 của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Điện B là chiếc xe máy biển kiểm soát 27AA-040.19 cho bà Phan Thị L.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ tội cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Ngày 15/4/2019, tại đội , xã Thanh A, huyện Điện B, bị cáo đã có hành vi cất giấu trái phép trong túi đựng quần áo để trước xe gắn máy 0,27 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 01- 02); Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng (BL 05-06); Kết luận giám định (BL 30); các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung , bản tự khai của bị cáo, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và quá trình thẩm vấn công khai tại phiên tòa hôm nay. Hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Với tác hại của chất ma túy đối với sức khỏe con người và mối nguy hại của nó đối với gia đình và xã hội. Nhà nước và toàn thể nhân dân đang có những chính sách, biện pháp phòng chống ngăn chặn nhằm đẩy lùi tệ nạn và những tội phạm về ma túy thì bị cáo lại tiếp tay cho tội phạm ma túy phát triển, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.
[2] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã tàng trữ trái phép 0,27 gam Heroine mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS với mức hình phạt từ 01 đến 05 năm tù, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng.
[3] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Quách Thành Tr sinh ra và lớn lên tại Điện Biên học hết 12/12. Từ năm 1995 đến 2001 đi học tại Đại học Thái Ng. Từ năm 2001 đến năm 2004 làm việc tại Trung tâm khuyến nông tỉnh Điện B. Bị cáo từ năm 2009 đến 2018 đã từng 3 lần bị xét xử và 01 lần bị xử lý hành chính: Ngày 08/9/2009 bị Công an Thành phố Điện Biên Ph xử phạt cảnh cáo. Ngày 10/11/2009 bị Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Ph xử phạt 06 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Ngày 23/6/2011 bị Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Ph xử phạt 06 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản", đều đã được xóa án tích. Ngày 19/4/2018 bị Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Ph xử phạt 09 tháng tù về tội: "Trộm cắp tài sản", hiện chưa được xóa án tích. Bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng là "tái phạm" theo điểm h khoản 1 Điều 52/BLHS.
Quá trình nhiều lần giáo dục cải tạo bị cáo đã không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân, phấn đấu trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội mà lại liên tiếp phạm tội, đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
HĐXX xét xử sẽ cân nhắc hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để có mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ rất nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải thật nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để lần nữa cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, bị cáo khai mua của người đàn ông không biết tên, địa chỉ tại đội 18, xã Thanh A, huyện Điện B nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ, HĐXX không xem xét.
[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù thì bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo Khoản 5 Điều 249/BLHS. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là người sử dụng ma túy nguồn thu nhập chính nhờ làm ruộng nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5]. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, c Khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,27 gam Heroine đã trích mẫu gửi giám định 0,07 gam không hoàn lại mẫu và 01 túi xách màu xanh có hai ngăn, các ngăn đều có khóa kéo dài, miệng túi có 02 dây xách, túi dài 50 cm, rộng 40 cm; tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 2.000 đồng.
Đối với chiếc xe máy biển kiểm soát 27AA - 04019 bị cáo đã dùng để đi mua ma túy. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ: Chủ sở hữu là bà Phan Thị L là mẹ bị cáo, bà Lệ không biết bị cáo dùng xe vào việc mua ma túy nên bà không liên quan đến vụ án. HĐXX chấp nhận biên bản trao trả tài sản của ngày 29/5/2019 của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Điện Biên chiếc xe máy biển kiểm soát 27AA - 04019 cho bà Phan Thị L theo Quyết định xử lý vật chứng số 39 ngày 28/5/2019.
[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c Khoản 1 Điều 249/BLHS; Điểm s Khoản 1 Điều 51/BLHS; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;
1. Tuyên bố: Bị cáo Quách Thành Tr phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt: Bị cáo Quách Thành Tr: 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 15/4/2019.
3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a, c Khoản 1 Điều 47/BLHS năm 2015; Điểm a, c Khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106/BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 0,27 gam Heroine đã trích mẫu gửi giám định 0,07 gam không hoàn lại mẫu và 01 túi xách màu xanh có hai ngăn, các ngăn đều có khóa kéo dài, miệng túi có 02 dây xách, túi dài 50 cm, rộng 40 cm; tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 2.000 đồng.
Chấp nhận biên bản trao trả tài sản ngày 29/5/2019 của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Điện Biên chiếc xe máy biển kiểm soát 27AA - 04019 cho bà Phan Thị L theo Quyết định xử lý vật chứng số 39 ngày 28/5/2019.
(Toàn bộ vật chứng đã được Công an huyện Điện Biên bàn giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên hồi 10 giờ 15 phút ngày 30 tháng 7 năm 2019)
4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS năm 2015 và điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 11/9/2019. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần Bản án có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.
Bản án 141/2019/HS-ST ngày 11/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 141/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về