Bản án 136/2020/HSST ngày 30/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 136/2020/HSST NGÀY 30/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 136/2020/HSST ngày 01 tháng 6 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2020/QĐXXST-HS ngày 17/6/2020, đối với bị cáo:

NGUYỄN HỮU T (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 22 tháng 6 năm 1997 tại tỉnh Đ.N. Nơi cư trú: ấp A, xã T, huyện T.B, tỉnh Đồng Nai. Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Thu Ng, sinh năm 1968; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 02; chưa có vợ con.

Tiền án: Không; Tiền sự: Không Bị bắt quả tang ngày 21/3/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai (có mặt)

Ngưi làm chứng:

- Anh Đặng Hoàng N, sinh năm 1999. (vắng mặt)

- Chị H-Viếu B, sinh năm 2001. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hữu T là đối tượng sử dụng ma túy từ cuối năm 2019. Khoảng 15 giờ ngày 21/3/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy, T đón xe ôm đi đến khu vực đường ray xe lửa thuộc ấp An Bình, xã Trung Hòa, huyện Trảng Bom gặp đối tượng tên Tý (không rõ lai lịch) mua 05 gói ma túy giá 600.000đ. Sau đó T cất giấu ma túy vào trong túi quần rồi bắt xe ôm về phòng trọ của ban gái tên H- Viếu Bkrông ở phòng trọ số 16 nhà trọ của ông Phạm Văn X, thuộc ấp An Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Mục đích T đến để rủ H-Viếu B cùng sử dụng ma túy nhưng T chưa sử dụng ma túy mà lên gác phòng trọ nằm nghỉ. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, Công an huyện Trảng Bom kiểm tra phòng trọ số 16 của H-Viếu B T thấy vậy lấy ma túy từ trong túi quần cất giấu xuống dưới thùng rác trên gác phòng trọ thì bị Công an phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm: 05 gói nylon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng thu giữ dưới thùng rác trên gác phòng trọ (niêm phong ký hiệu M), 01 nỏ thủy tinh và 01 điện thoại di động Samsung galaxy J7 không sim.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trưng cầu giám định số ma túy thu giữ nêu trên. Tại bản kết luận giám định số 594/KLGĐ-PC09 ngày 26/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng ký hiệu M được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,8028 gam loại Methaphetamine.

Xử lý vật chứng: 01 (Một) điện thoại Samsung Galaxy J7 không sim là điện thoại của T, không liên quan đến việc phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho gia đình bị cáo T.

Tại bản cáo trạng số 156/CT-VKS-TB ngày 28/5/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Hữu T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định vụ số 594/KLGĐ-PC09 ngày 27/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 nỏ thủy tinh.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.

Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tụng tố tụng: Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử cũng như tại phiên tòa, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ, quyền được bào chữa và tự bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều phù hợp.

[2] Về nội dung vụ án: Khoảng 15 giờ ngày 21/3/2020, bị cáo Nguyễn Hữu T đến khu vực đường ray xe lửa thuộc ấp An Bình, xã Trung Hòa, huyện Trảng Bom mua của đối tượng tên Tý 05 (năm) gói ma túy với giá 600.000 đồng. Sau đó T cất giấu ma túy vào túi quần rồi đến phòng trọ của chị H-Viếu B tại ấp An Hòa, xã Tây Hòa, huyện Trảng Bom. Vào khoảng 22 giờ 30 phút ngày 21/3/2020, Công an kiểm tra hành chính phòng trọ thì phát hiện 05 (năm) gói ma túy bị cáo T đang cất giấu. Kết quả giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai kết luận số ma túy mà bị cáo T tàng trữ có khối lượng 1,8028 gam, loại Methaphetamine. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát đã viện dẫn và truy tố.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý về các chất ma túy của Nhà nước, trực tiếp là hoạt động tàng trữ trái phép. Ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây nguy hại đến sức khỏe, phẩm giá con người, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Nhưng với mục đích đáp ứng nhu cầu cá nhân, có chất ma túy để sử dụng mà bị cáo đã bất chấp những quy định của pháp luật, đạo đức xã hội, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần có mức hình phạt đủ nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng phạt, răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo có nhân thân tốt, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự và sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi lượng hình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự [5] Về xử lý vật chứng:

[5.1] Đối với 01 (một) phong bì niêm phong ma túy sau giám định số 594/KLGĐ-PC09 ngày 27/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đồng Nai, 01 (một) nỏ thủy tinh là vật chứng cấm tàng trữ nên cần tịch thu và tiêu hủy.

[5.2] Đối với 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 không sim điện thoại thu giữ của bị cáo T không liên quan đến việc phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trảng Bom đã trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[7] Về các vấn đề khác liên quan đến vụ án:

[7.1] Đối tượng tên Tý có hành vi bán ma túy cho bị cáo ở ấp An Bình, xã Trung Hòa, huyện Trảng Bom, do bị cáo không biết tên tuổi và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra huyện Trảng Bom tiếp tục xác minh làm rõ, khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7.2] Đối với H-Viếu B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy vào ngày 20/3/2020, Công an huyện Trảng Bom đã xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 91/QĐ-XPVPHC ngày 27/3/2020 là phù hợp.

[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom về tội danh, hình phạt, xử lý vật chứng và án phí phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/3/2020.

2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tịch thu và tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định, được đựng trong 01 phong bì niêm phong sau giám định vụ số: 594/KLGĐ-PC09 ngày 27/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai và 01 (một) nỏ thủy tinh.

(các vật chứng trên được giao nhận theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, T sản ngày 10/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai)

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2020/HSST ngày 30/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:136/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về