TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 136/2020/HS-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ Hòa, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 135/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:
Trần Vũ L (T), sinh năm 2000 tại Long An; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp H1, xã H2, huyện T, tỉnh Long An. Chỗ ở: Ấp B, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn G, sinh năm: 1968 và bà Lê Thị L, sinh năm: 1970; chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/6/2020 cho đến nay (có mặt).
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Trần Văn T, sinh năm 2001. Địa chỉ: Ấp K, xã H, huyện T, tỉnh Long An.Tạm trú: Ấp B, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Long An (vắng mặt).
2. Sơn Tr, sinh năm 2004. Địa chỉ: Ấp B, xã L, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Tạm trú: Nhà trọ T, ấp B 2, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Long An (vắng mặt).
3. Trần Ân Đ, sinh năm 1999. Địa chỉ: Số nhà A đường B tổ C Khóm D, phường E, thành phố C1, tỉnh Đồng Tháp. Tạm trú: Số R đường P, phường L, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)..
4. Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1980. Địa chỉ: Ấp B, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Long An (vắng mặt).
- Người làm chứng:
1. Nguyễn Vũ L1 sinh năm 1999 (vắng mặt);
2. Lê Ngọc T2, sinh năm 1984 (vắng mặt).;
Cùng địa chỉ: Ấp B, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 00 ngày 09/6/2020, Trần Vũ L cùng với K (không rõ nhân thân lai lịch) đi xe buýt đến vòng xoay Phú Lâm thuộc quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh gặp nam thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) mua 01 bịch nylon chứa ma túy dạng đá với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua ma túy xong L cầm bịch nylon chứa ma túy đá trên tay rồi cùng K đi xe buýt quay về phòng trọ số A, nhà trọ không tên thuộc ấp B, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Long An của Trần Văn T thuê trọ rồi cất giấu vào túi xách da của L. Sau đó K đi ra ngoài, L ở lại phòng trọ của T. Đến khoảng 14 giờ 00 cùng ngày thì K quay trở lại phòng trọ số 2 của Trần Văn T thuê để gặp L, K cho L 03 bịch nylon nhỏ chứa ma túy dạng đá để L cất giấu, để dành sử dụng. L cất 03 bịch ma túy đá của K vừa cho vào túi da của L. Đến 21 giờ 00 ngày 12/6/2020, L đem theo túi da bên trong có chứa 04 bịch ma túy dạng đá đến sinh nhật bạn gái của T để uống rượu. Sau khi uống rượu xong L cùng Sơn T và Trần Ân Đ đi đến bờ hồ trong khu công nghiệp Hải Sơn thuộc ấp Bình Tiền 2, xã Đ Hòa Hạ, huyện Đ Hòa, tỉnh Long An chơi. Khi đến bờ hồ L lấy ma túy ra để cả ba cùng nhau sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy xong L cùng Tr và Đ quay về phòng trọ của T để ngủ. Đến 01 giờ 00 ngày 13/6/2020 khi L, Tr, Đ, T đang ngủ tại phòng số 02 nhà trọ của T thuê thì lực lượng Công an huyện Đức Hòa đến kiểm tra. Qua kiểm tra lực lượng Công an phát hiện L cất giấu 04 bịch nylon gồm 03 bịch nhỏ và 01 bịch lớn bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 04 bịch nylon (01 bịch lớn và 03 bịch nhỏ) bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng đá (thu của Trần Vũ L).
Tại Bản kết luận giám định số 504 ngày 18/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An kết luận 04 bịch (01 bịch lớn và 03 bịch nhỏ) được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 1,0028 gam, loại MethampheTine.
Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu; bị cáo không có ý kiến thắc mắc, khiếu nại về bản kết luận giám định, đồng thời không có khiếu nại gì đối với Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Tại bản Cáo trạng số 135/CT-VKS-ĐH ngày 14/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An truy tố bị cáo Trần Vũ L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân huyện Đức Hòa tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật, đồng thời phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 xử phạt bị cáo Trần Vũ L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy mẫu còn lại sau giám định có khối lượng: 0,2921 gam được đóng gói niêm phong số 504 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An hoàn lại sau giám định (hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa đang quản lý).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ Hòa trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Trước tòa, bị cáo Trần Vũ L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra trước tòa, thể hiện: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 13/6/2020, tại phòng trọ trọ số A, nhà trọ không tên thuộc ấp B, xã Đ1, huyện Đ2, tỉnh Long An, Trần Vũ L có hành vi tàng trữ 04 bịch nylon (03 bịch nhỏ và 01 bịch lớn) chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy trong túi xách da trong phòng trọ của Trần Văn T thì bị Công an huyện Đức Hòa bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật để xử lý. Kết quả giám định, 04 bịch nylon L cất giấu là ma túy loại MethampheTine, có khối lượng là 1,0028 gam. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước đối với chất ma túy, gây mất an ninh trật tự trị an, bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân tại địa phương. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng, phòng ngừa chung.
[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có hoàn cảnh khó khăn là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo không có tình tiết tăng nặng nên khi quyết định hình phạt cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.
Đối với người thanh niên không rõ họ tên, địa chỉ có hành vi bán trái phép chất ma túy cho L tại khu vực Vòng Xoay Phú Lâm thuộc quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh và người thanh niên tên K cùng với L đi mua ma túy, cho L 03 bịch ma túy để L cất giấu sử dụng, do không rõ nhân thân, lai lịch của những người này và chỉ có duy nhất lời khai của bị can L nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này, Cơ quan điều tra tiếp tục truy xét làm rõ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Thanh T1 là chủ nhà trọ, Trần Văn T là người cho L ở cùng phòng trọ,Trần Ân Đ, Sơn Tr không có thỏa thuận, không có giúp sức gì trong việc L mua ma túy về cất giấu, sử dụng và không biết việc L cất giấu ma túy do đó hành vi của Tuấn, T, Đ, Tr không cấu thành tội phạm. Riêng Đ và Tr có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy cùng với L nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đức Hòa, tỉnh Long An áp dụng biện pháp xử lý hành chính đối với Đ và Tr là phù hợp quy định pháp luật.
[5] Xử lý vật chứng: Đối với mẫu còn lại sau giám định có khối lượng 0,2921 gram được đóng gói niêm phong số 504 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An hoàn lại sau giám định không còn giá trị sử dụng cần tịch thu và tiêu hủy.
[6] Về án phí: Bị cáo Trần Vũ L phải nộp án phí theo qui định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Trần Vũ L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106; 135; 136; 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, nộp án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Trần Vũ L 02 (hai) năm tù. Thời gian tù được tính từ ngày 16/3/2020.
Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy mẫu còn lại sau giám định có khối lượng: 0,2921 gam được đóng gói niêm phong số 504 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An hoàn lại (hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa quản lý).
Về án phí: Bị cáo Trần Vũ L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ niêm yết bản án.
Bản án 136/2020/HS-ST ngày 29/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 136/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về