Bản án 136/2019/HSST ngày 14/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 136/2019/HSST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 119/2019/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2019/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lương Văn C; tên gọi khác: Không; sinh năm 1997, tại xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Bản H, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Văn K và bà Học Thị P; có vợ là: Lim Thị M; con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2019 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

2. Họ và tên: Lo Hằng M; tên gọi khác: Lo Văn T; sinh ngày 20/11/1994, tại xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: bản K, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ học vấn: Lớp 5/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lo Văn X và bà Học Thị L; vợ con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: có 01 (một) tiền án, ngày 25/7/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An xử phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/9/2017; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2019 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Phạm Thế K - Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Cụt Văn H; sinh năm 1977; trú tại: Bản L, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt;

- Người làm chứng:

1. Anh Lô Văn V; sinh năm 1986; trú tại: Bản X, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt;

2. Anh Vi Khăm H; sinh năm 1986; trú tại: Bản Q, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Theo cáo trạng số 125/CT-VKS-HS ngày 06/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An thì các bị cáo Lương Văn C và Lo Hằng M đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị truy tố theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Lương Văn C và Lo Hằng M thừa nhận đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy với các tình tiết như nội dung cáo trạng đã nêu, cụ thể là: Vào khoảng 08 giờ ngày 14/6/2019, Lương Văn C điều khiển xe máy đi từ nhà đến bản N, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An, tại đây Lương Văn C gặp một người đàn ông tên Thoại, Lương Văn C rủ người đàn ông tên Thoại đi mua ma túy sử dụng thì Thoại đồng ý. Sau đó, Lương Văn C và Thoại đi xe máy xuống bản Khe Tang, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì gặp Lo Hằng M, Lương Văn C đưa cho Lo Hằng M số tiền 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn) để nhờ Lo Hằng M mua hộ ma túy thì Lo Hằng M đồng ý. Lo Hằng M cầm tiền đến gặp Kha Văn H, trú tại bản K, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An hỏi và mua với Kha Văn H 01 (một) cục heroine với giá 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi nghìn đồng). Mua heroine xong Lo Hằng M cất dấu trong người rồi đi bộ về nhà.

Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Lương Văn C cùng người đàn ông tên Thoại quay lại nhà của Lo Hằng M thì được Lo Hằng M đưa cho Lương Văn C 01 (một) cục heroine gói trong vỏ bao kim tiêm, Lương Văn C nhận cục heroine rồi chia cho Lo Hằng M một ít, số còn lại Lương Văn C cất dấu trong người, sau đó cùng người đàn ông tên Thoại đi đến bản N, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An và nhà của một người đàn ông tên Nam để sử dụng ma túy. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi Lương Văn C đang cắt tóc ở khu vực bản Q, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An thì bị tổ công tác Công an huyện Kỳ Sơn phát hiện, bắt quả tang, thu giữ 01 (một) gói chất màu trắng (nghi là heroine) và 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA Sirius, màu đỏ-đen, BKS: 37K1-043.74.

Đối với Lo Hằng M, sau khi được Lương Văn C chia cho một ít heroine thì Lo Hằng M chia số heroine đó ra thành 03 (ba) gói nhỏ, cất dấu trong buồng ngủ để sử dụng dần. Trên cơ sở lời khai của Lương Văn C, Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lo Hằng M, phát hiện thu giữ 03 (ba) gói chất màu trắng (nghi là heroine) được gói bằng giấy trắng, Lo Hằng M thừa nhận đó là heroine mà Lo Hằng M đã đi mua về cho Lương Văn C và được Lương Văn C chia cho..

Theo các biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 16/6/2019 thì: Số chất màu trắng (nghi là heroine) thu giữ của Lương Văn C có khối lượng 0,3g (Không phẩy ba gam). Số chất màu trắng (nghi là heroine) thu giữ của Lo Hằng M có khối lượng 0,1g (Không phẩy một gam). Hội đồng niêm phong đã tiến hành trích mẫu để gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 907, 908/KL-PC09(MT) ngày 20/6/2019 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất màu trắng thu giữ của Lương Văn C và Lo Hằng M gửi tới giám định là ma tuý (heroine).

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lương Văn C và Lo Hằng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lương Văn C mức án từ 14 (Mười bốn) đến 18 (Mười tám) tháng tù; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lo Hằng M mức án từ 15 (Mười lăm) đến 20 (Hai mươi) tháng tù. Đề nghị xử lý vật chứng, án phí theo quy định pháp luật và miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Người bào chữa cho các bị cáo: Đồng ý với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhưng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét động cơ, mục đích phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng sâu vùng xa là điểm nóng về tệ nạn ma túy, nhận thức về pháp luật còn hạn chế; trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thành khẩn khai báo, để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trông hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Bị cáo không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp và đúng quy định pháp luật.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo Lương Văn C, Lo Hằng M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án, phù hợp với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 14/6/2019, tại xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An, Lương Văn C và Lo Hằng M đã có hành vi tàng trữ 0,4g (Không phẩy bốn gam) heroine với mục đích là để sử dụng, hành vi đó của các bị cáo Lương Văn C và Lo Hằng M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;

a)……………………………………………………….;

c) Heroine có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; Nhân thân người phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các loại chất gây nghiện. Khi phạm tội các bị cáo cũng nhận thức được ma túy là chất gây nghiện bị Nhà nước cấm vì ma túy gây tác hại xấu đến đời sống kinh tế xã hội cũng như sức khỏe của con người và cũng làm mầm mống phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác, nhưng các bị cáo vẫn bất chấp pháp luật để tàng trữ trái phép làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, vì vậy hành vi đó phải được xử lý nghiêm minh, cần tuyên phạt các bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, việc cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới đủ điều kiện để vừa tiếp tục cải tạo, giáo dục riêng bị cáo vừa răn đe phòng ngừa chung. Đây là vụ án có đồng phạm nên phải phân hóa hành vi của mỗi bị cáo để lên cho mỗi bị cáo một mức án phù hợp với tính chất vai trò của từng bị cáo:

[3.1] Đối với bị cáo Lương Văn C thực hiện tội phạm với vai trò là khởi xướng, rủ rê, xúi dục người khác phạm tội nên trong vụ án này Lương Văn C là người giữ vai trò chính.

[3.2] Đối với bị cáo Lo Hằng M, do bị rủ rê, lôi kéo nhưng đã thực hiện tội phạm một cách tích cực (là người trực tiếp đi mua ma túy), mặc dù giữ vai trò thứ yếu nhưng phải chịu trách nhiệm do chính hành vi mà mình đã gây ra. Ngoài ra, bị cáo Lo Hằng M đã từng bị kết án chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó để làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, phạm tội lần này bị cáo Lo Hằng M phải chịu thêm tình tiết tăng nặng là “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[3.3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cũng thấy rằng: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Lương Văn C và Lo Hằng M đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy rằng, các bị cáo là đối tượng nghiện hút, hoàn cảnh gia đình khó khăn, tài sản không có nên miễn hình phạt bổ sung là hình phạt tiền cho các bị cáo.

[5] Trong vụ án này còn có Kha Văn H, sinh năm 1972, trú tại bản Khe Tang, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An đã bán ma túy cho các bị cáo, tuy nhiên quá trình điều tra xác minh hiện tại Kha Văn H không có mặt tại địa phương nên cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra khi nào bắt được sẽ xử lý sau. Đối với người đàn ông tên Thoại đi mua ma túy cùng Lương Văn C và người đàn ông tên Nam cho Lương Văn C và Thoại sử dụng ma túy tại nhà, quá trình điều tra, xác minh tại bản Khe Nằn, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An không có ai tên Thoại và Nam nên không có căn cứ để xử lý.

[6] Về vật chứng vụ án: Số ma túy heroine đã thu giữ của các bị cáo sau khi trích gửi giám định thì số còn lại là 0,25g (Không phẩy hai mươi lăm gam) heroine, đây là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần phải tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA Sirius, màu đỏ-đen, BKS: 37K1-043.74 quá trình điều tra đã xác định chủ sở hữu là anh Cụt Văn H, sinh năm 1977, trú tại: Bản L, xã C, huyện KS, tỉnh Nghệ An, quá trình bị cáo Lương Văn C sử dụng xe vào việc phạm tội anh Cụt Văn H không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật.

[7] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lương Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Lương Văn C 17 (Mười bảy) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 14/6/2019).

Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lo Hằng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy". Xử phạt bị cáo Lo Hằng M 17 (Mười bảy) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 14/6/2019).

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư bưu điện có viền xanh đỏ, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của đối tượng Lương Văn C, bên trong có chứa 0,2g (không phẩy hai gam) heroine và vỏ giấy niêm phong ban đầu; 01(một) phong bì thư bưu điện có viền xanh đỏ, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong và chữ ký của đối tượng Lo Hằng M, bên trong có chứa 0,05g (không phẩy không năm gam) heroine và vỏ giấy niêm phong ban đầu.

Vật chứng đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 14 giờ 50 phút ngày 01/10/2019 giữa Công an huyện Kỳ Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Lương Văn C và Lo Hằng M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tuyên bố: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 14/11/2019). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án đối với phần có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 136/2019/HSST ngày 14/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:136/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về