Bản án 135/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 135/2020/HS-ST NGÀY 12/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận N, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 146/2020/TLST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 112/2020/QĐXXST- HS ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Hoàng L, sinh ngày 16 tháng 12 năm 2000 tại H. Nơi cư trú: Số 8 Đ31, phường Đ, quận N, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thành Đ và bà Nguyễn Thị Thu H; chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ ngày 23 tháng 8 năm 2020, tạm giam ngày 25 tháng 8 năm 2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do buồn chán chuyện gia đình nên khoảng 23 giờ 30 phút ngày 23/8/2020 Trần Hoàng L đi bộ một mình đến khu vực chợ Hàng, quận Lê Chân, thành phố H mua ma túy của một người tên Linh 01 gói ma túy Ketamine với giá 1.000.000 đồng. Linh nhận tiền và bán cho L 01 gói nilon màu trắng, kích thước 02 x 02cm bên trong chứa tinh thể màu trắng. L cất gói ma túy vào túi quần phía trước, bên trái rồi đi tìm nơi sử dụng, khi L đi đến khu vực đầu ngõ 81 đường An Đà, phường Đằng Giang, quận N, thành phố H thì bị Công an quận N bắt quả tang cùng tang vật. Ngoài ra L còn khai trước đó cũng mua 01 gói ma túy của Linh về sử dụng nhưng L không biết lai lịch, địa chỉ của Linh ở đâu.

Vật chứng của vụ án: 01 phong bì số 538/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định đã chuyển Chi cục Thi hành án dân sự quận N, thành phố H.

Tại Bản Kết luận giám định số 538/KLGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố H, kết luận: “Chất tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Hoàng L gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,32 gam, là loại Ketamine”.

Tại Bản Cáo trạng số 131/CT-VKS ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân quận N, thành phố H đã truy tố bị cáo Trần Hoàng L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Hoàng L khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Hoàng L mức án từ 15 đến 18 tháng tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản và thu nhập không ổn định nên không buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 538/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về căn cứ xác định tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo:

[1] Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của những người làm chứng có trong hồ sơ vụ án và vật chứng thu giữ có đủ cơ sở kết luận: Trần Hoàng L đã thực hiện hành vi cất giữ trái phép 1,32 gam, là loại Ketamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Bị cáo bị bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy nêu trên vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 23/8/2020 tại đầu ngõ 81 đường An Đà, phường Đằng Giang, quận N, thành phố H. Hành vi của Trần Hoàng L đã đủ yếu tố cầu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2] Việc truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân quận N, thành phố H đối với bị cáo Trần Hoàng L về tội danh và điều luật áp dụng là có cơ sở và đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm chính sách quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn xâm phạm trật tự trị an xã hội. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như đáp ứng yêu cầu phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[5] Qua xác minh bị cáo không có tài sản và thu nhập không ổn định nên không buộc bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về vật chứng của vụ án:

[6] Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 538/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định.

- Về án phí:

[7] Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm - Về quyền kháng cáo:

[8] Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Đối với người tên Linh bán ma túy cho L, hiện chưa xác minh được lai lịch địa chỉ, Cơ quan điều tra tiếp tục làm rõ xử lý sau.

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

[10] Việc khởi tố, điều tra, truy tố và ban hành quyết định khởi tố, truy tố; áp dụng biện pháp ngăn chặn; tống đạt các văn bản tố tụng; lấy lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; thời hạn điều tra, truy tố trong tố tụng hình sự đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 333; khoản 1 Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử phạt: Trần Hoàng L 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt t tính từ ngày 23 tháng 8 năm 2020.

- Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì số 538/PC09 niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận N, thành phố H).

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Hoàng L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Trần Hoàng L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 135/2020/HS-ST ngày 12/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:135/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về