Bản án 134/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 134/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 113/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 179/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Slển Tuyên N., sinh năm 1998, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Số X, đường Y, phường Z, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số X2, ấp Y2, xã Z2, Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Slển A Nh. và bà Đoàn Thị D.; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con; Tiền án: Ngày Ngày 24/02/2017 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/02/2018; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không; hiện đang tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/6/2019 trong một vụ án khác (có mặt);

2. Đào Thanh H., sinh năm 1999, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: Số X3, đường Y3, phường Z3, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Công Qu. và bà Lê Thị L.; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 07/5/2019 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đang chấp hành hình phạt tại Trại Giam Mỹ Phước, tỉnh Tiền Giang từ ngày 12/7/2019 (Bản án số 76/2019/HSST); Bị bắt đi chấp hành án từ ngày 12/7/2019 (có mặt).

- Bị hại: Chị Nguyễn Thục L2., sinh năm 1979; thường trú: Số X4, đường Y4, phường Z4, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Đào Thị Bích Ph., sinh năm 1988; thường trú: Số X5, đường Y5, phường Z5, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Số X3, đường Y3, phường Z3, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ ngày 24/11/2018, SLển Tuyên N. gọi điện thoại rủ Đào Thanh H. đi trộm cắp tài sản cùng với đối tượng tên Bé Khổ (chưa rõ lai lịch) để bán lấy tiền chia nhau tiêu xài. H. đồng ý nên sử dụng xe gắn máy biển số 59P2- 796.78 đến quán sinh tố số X6, đường Y6, phường Z6, Quận 6 gặp SLển Tuyên N., Bé Khổ và thống nhất như sau: N. điều khiển xe gắn máy biển số 59P2- 697.78 chở Bé Khổ trực tiếp trộm cắp tài sản, còn H. điều khiển xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius (không rõ biển số) của N. làm nhiệm vụ cảnh giới. Sau đó, khi cả ba lưu thông đến trước tiệm bán thuốc tây số X7, đường Y7, phường Z7, quận Tân Phú, thì thấy có 01 xe gắn máy hiệu Honda Future Neo màu đỏ, biển số 50N1-446.08 của chị Nguyễn Thục L2. để trước cửa, không người trông coi nên H. dừng xe trước cửa nhà số số X7, đường Y7, phường Z7, quận Tân Phú để cảnh giới, còn N. điều khiển xe dừng phía bên trái của xe gắn máy biển số 50N1-446.08, tiếp đó, Bé Khổ đi đến dùng đoản phá khóa rồi quay lại chỗ N., N.

lấy chìa khóa xe đã chuẩn bị sẵn gắn vào ổ khóa xe gắn máy biển số 50N1- 446.08 để tránh bị phát hiện rồi lấy trộm xe và cùng Bé Khổ và H. chạy thoát. Sau đó, cả ba đem xe bán cho 01 người thanh niên (chưa rõ lai lịch) tại khu vực đường THĐ, Quận 6 với giá 7.000.000 đồng, mỗi người được chia 2.000.000 đồng, còn 1.000.000 đồng dùng để ăn uống chung.

Ngày 22/1/2019, SLển Tuyên N. đến Công an quận Tân Phú đầu thú về hành vi trộm cắp tài sản trên. Qua truy xét, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Tân Phú đã triệu tập Đào Thanh H. đến làm việc. Tại Cơ quan điều tra, Đào Thanh H. và SLển Tuyên N. đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Sau đó, Đào Thanh H. và SLển Tuyên N., được gia đình bảo lãnh về. Tuy nhiên, N. đã bỏ trốn đến ngày 08/6/2019 thì bị bắt quả tang khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản xảy ra tại trước số X8, đường Y8, phường Z8, quận Tân Phú.

Đi với Đào Thanh H. bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân đưa ra xét xử ngày 07/5/2019 do đã thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản vào ngày 01/11/2017, hiện đang chấp hành án tại Trại giam Mỹ Phước, tỉnh Tiền Giang.

Theo kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 11/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận Tân Phú: 01 xe hai bánh gắn máy hiệu Honda Future Neo, biển số: 50N1-446.08, màu sơn: đỏ ghi xám, số máy: JC76E0096566, số khung: 7612GZ064308. Tài sản đã qua sử dụng. Tỷ lệ còn lại 85%. Trị giá 25.000.000 đồng - Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Thục L2. yêu cầu các bị cáo bồi thường giá trị chiếc xe trên là 14.000.000 đồng, các bị cáo chưa bồi thường.

- Vật chứng vụ án:

+ 01 (một) xe hai bánh gắn máy hiệu Honda Future Neo, biển số: 50N1- 446.08, màu sơn: đỏ ghi xám, số máy: JC76E0096566, số khung: 7612GZ064308. Chủ sở hữu là bị hại Nguyễn Thục L2., hiện chưa thu hồi được.

+ 01 (một) xe hai bánh gắn máy hiệu Honda Wave, biển số 59P2-697.78, số máy: JA39E-0471978, số khung: RLHJA390XHY496833. Qua xác minh, chủ sở hữu là chị Đào Thị Bích Ph. (chị của bị cáo H.). Ngày 24/11/2018, H. mượn xe của chị Ph. để đi chơi, chị Ph. không biết H. dùng xe làm Ph. tiện phạm tội.

+ 01 (một) quần Short màu đen, 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen (thu giữ của Đào Thanh H.).

+ Số tiền 1.360.000 đồng. Đây là số tiền còn lại H. được chia từ số tiền bán xe gắn máy của người bị hại.

Tại Bản cáo trạng số: 116/CT-VKSQ.TP ngày 29/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Slển Tuyên N. và Đào Thanh H. về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Slển Tuyên N. từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm 06 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Đào Thanh H. từ 01 năm tù đến 02 năm tù.

Về phần trách nhiệm dân sự: Buộc các bị cáo N. và H. liên đới bồi thường cho bị hại Nguyễn Thục L2. số tiền 14.000.000 đồng.

Phần xử lý vật chứng đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo Slển Tuyên N. và Đào Thanh H. thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố và đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại Nguyễn Thục L2..

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đánh giá hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng. Các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Đánh giá hành vi của bị cáo:

Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của các bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Qua đó đủ cơ sở để xác định: Khoảng 18 giờ ngày 24/11/2018, Slển Tuyên N. rủ Đào Thanh H. cùng đối tượng tên Bé Khổ đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 01 xe gắn máy hiệu Honda Future Neo, biển số 50N1-446.08 của bị hại Nguyễn Thục L2. tại trước nhà số X7, đường Y7, phường Z7, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú đã truy tố các bị cáo N. và H. về tội “Trộm cắp tài sản” theo Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Các bị cáo N. và H. đã trộm cắp tài sản với tổng số tiền trị giá là 25.000.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo N. và H. phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của người khác, được pháp luật bảo vệ, đồng thời ảnh hưởng đến trật tự, trị an, an toàn xã hội. Bản thân các bị cáo là người đã thành niên, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng mà không muốn bỏ công sức lao động nên các bị cáo đã cố ý phạm tội, chứng tỏ ý thức xem thường pháp luật của các bị cáo. Do đó, cần phải xử phạt nghiêm các bị cáo để giáo dục các bị cáo nói riêng và để đảm bảo việc đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung cho toàn xã hội.

Hành vi phạm tội của các bị cáo có tính chất đồng phạm giản đơn. Trong đó, bị cáo N. là người rủ bị cáo H. và là người trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Còn bị cáo H. làm người cảnh giới là đồng phạm giúp sức tích cực.

Đi với bị cáo H., vào ngày 07/5/2019 đã bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (tại bản án sơ thẩm số 76/2019/HSST). Do đó, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 01 năm tù của bản án sơ thẩm số 76/2019/HSST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo Đào Thanh H. chấp hành hình phạt chung của 02 bản án.

Đi với đối tượng tên Bé Khổ do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo:

Bị cáo N. phạm tội thuộc trường hợp Tái phạm. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự trong việc lượng hình đối với bị cáo N.. Ngoài ra, trong quá trình điều tra, bị cáo N. được tại ngoại nhưng đã bỏ trốn và bị bắt giữ vào ngày 08/6/2019 trong một vụ án khác. Do đó, Hội đồng xét xử cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo N..

Các bị cáo N. và H. tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải; Do đó, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Hi đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Do đó, miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Slển Tuyên N. và Đào Thanh H..

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Chị Nguyễn Thục L2. yêu cầu các bị cáo bồi thường giá trị chiếc xe gắn máy bị trộm cắp là 14.000.000 đồng. Các bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Do đó, Hội đồng xét xử buộc các bị cáo Slển Tuyên N. và Đào Thanh H. có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho chị Nguyễn Thục L2. số tiền 14.000.000 đồng. Cụ thể mỗi bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho chị L2. số tiền 7.000.000 đồng.

[6] Về xử lý vật chứng:

+ 01 (một) xe hai bánh gắn máy hiệu Honda Wave, biển số 59P2-697.78, số máy: JA39E-0471978, số khung: RLHJA390XHY496833. Qua xác minh, chủ sở hữu là chị Đào Thị Bích Ph. (chị của bị cáo H.). Ngày 24/11/2018, H. mượn xe của chị Ph. để đi chơi, chị Ph. không biết H. dùng xe làm Ph. tiện phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần trả lại chiếc xe trên cho chị Đào Thị Bích Ph..

+ 01 (một) quần Short màu đen, 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen (thu giữ của Đào Thanh H.). Đây là vật chứng không còn giá trị sử dụng, bị cáo H. không yêu cầu nhận lại. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.

+ Số tiền 1.360.000 đồng. Đây là số tiền còn lại H. được chia từ số tiền bán xe gắn máy của người bị hại. Hội đồng xét xử xét thấy cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 350.000 (ba trăm năm mươi nghìn) đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ Điều 173 Bộ luật hình sự;

Tuyên bố các bị cáo Slển Tuyên N. và Đào Thanh H. phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Slển Tuyên N. 02 (hai) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 08/6/2019.

[3] Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Đào Thanh H. 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Tng hợp với hình phạt 01 (một) năm tù của Bản án sơ thẩm số 76/2019/HSST ngày 07/5/2019 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Buộc bị cáo Đào Thanh H. chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 12/7/2019.

[4] Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Slển Tuyên N.

và Đào Thanh H..

[5] Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự;

Buộc các bị cáo Slển Tuyên N. và Đào Thanh H. có trách nhiệm liên đới bồi thường cho chị Nguyễn Thục L2. số tiền 14.000.000 (mười bốn triệu) đồng.

Cụ thể mỗi bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho chị Nguyễn Thục L2. số tiền 7.000.000 (bảy triệu) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng các điểm b, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Tạm giữ: Số tiền 1.360.000 đồng của bị cáo H. để đảm bảo thi hành án.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) quần Short màu đen, 01 (một) áo thun ngắn tay màu đen (thu giữ của Đào Thanh H.).

- Trả lại cho chị Đào Thị Bích Ph.: 01 (một) xe hai bánh gắn máy hiệu Honda Wave, biển số 59P2-697.78, số máy: JA39E-0471978, số khung: RLHJA390XHY496833.

(Theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 18/PNK ngày 30/11/2018 của Công an quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh).

Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

[7] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 13/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 350.000 (ba trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

[8] Căn cứ Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 134/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:134/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về