Bản án 132/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 132/2020/HS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Lê Chân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 109/2020/TLST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 313/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 14 tháng 7 năm 198A tại Hải Phòng. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 2 gác 2 ngõ 30 T.T, phường Phan Bội Châu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; nơi ở: Không có nơi ở cố định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D và con bà Trần Thị T; tiền án, tiền sự, nhân thân: 03 tiền án đã xóa, Án số 103/HSST ngày 30/3/2006, Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử 15 tháng tù cho hưởng án treo, 18 tháng thử thách về tội Trộm cắp tài sản; Án số 192/2008/HSST ngày 16/9/2008, Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Án số 123/2016/HSST ngày 19/7/2016, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Bị bắt tạm giữ ngày 19/5/2020, tạm giam ngày 21/5/2020; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17h30’ ngày 18/5/2020, Đoàn đặc nhiệm phòng chống tội phạm ma túy số 1 – Bộ tư lệnh Cảnh sát biển kết hợp cùng Công an phường An Dương, Lê Chân, Hải Phòng làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa nhà số 69 N.C.H, quận Lê Chân, Hải Phòng, phát hiện Nguyễn Thị Trà M có biểu hiện nghi vấn, yêu cầu kiểm tra, phát hiện thu giữ trong túi áo đằng trước bên phải chiếc áo khoác chống nắng của M đang mặc 01 túi nilon kích thước 2,5x4cm chứa tinh thể màu trắng, trong đó có chất bột màu trắng nghi là ma túy. Nên đã đưa M cùng vật chứng về trụ sở Công an phường lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Ngoài ra, còn thu giữ của M 200.000đồng, 01 điện thoại Iphone màu vàng đã cũ và 01 xe máy BKS 16M9 - 8075.

Tại Kết luận giám định số 275/KLGĐ ngày 19/5/2020 của Phòng Kĩ thuật hình sự - Công an TP Hải Phòng kết luận: chất bột màu trắng trong túi nilon thu giữ của Nguyễn Thị Trà My có khối lượng 1,07 gam là loại Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Thị Trà M khai: Khoảng 16h40’ ngày 18/5/2020, My đi xe máy một mình đến khu vực Cầu quay để mua ma túy về sử dụng. Tại đây, M gặp một nam giới đứng ở đầu ngõ rẽ vào đường tàu, M hỏi và mua của người này 500.000 đồng được 01 túi nilon chứa ma túy đá, M cất giáu túi ma túy vào túi áo bên phái phía trước rồi đi tìm chỗ sử dụng. Khi M đi đến khu vực trước cửa nhà số 69 N.C.H, quận Lê Chân, Hải Phòng thì bị Công an kiểm tra bắt giữ.

Đối với người nam giới bán ma túy cho M, do M không biết tên, địa chỉ của người nam giới đó nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Lê Chân không có cơ sở để điều tra.

Đối với chiếc xe máy BKS 16M9 – 807X thu giữ của M, quá trình điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Lê Chân tiếp tục lưu chiếc xe để điều tra, xác minh xử lý sau.

Tại Cáo trạng số 128/CT-VKS ngày 06 tháng 8 năm 2020, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Trà M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung vụ án đã nêu trên.

Đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Trà M mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù, về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo không có thu nhập và tài sản riêng nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong đựng lượng ma túy và vỏ bao bì hoàn lại sau giám định.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 16M9 – 807X thu giữ của M, quá trình điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Lê chân tiếp tục lưu giữ chiếc xe để điều tra, xác minh xử lý sau.

Đối với điện thoại di động iphone màu vàng đã cũ thu giữ của bị cáo là tài sản riêng của bị cáo, trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo là tài sản riêng của bị cáo, trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Lê Chân, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Lê Chân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng, báo cáo bắt giữ, tang vật thu giữ cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Nguyễn Thị Trà M đã có hành vi cất giữ trái phép 1,07 gam Methamphetamine để sử dụng, thì bị bắt vào hồi 17h30’ ngày 18/5/2020 ở khu vực trước cửa nhà số 69 N.C.H, quận Lê Chân, Hải Phòng. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Trà M phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về chất ma túy, làm suy thoái đạo đức lối sống và là nguyên nhân làm phát sinh những tội phạm khác gây mất trật tự xã hội.

Về nhân thân, bị cáo có 03 tiền án đã xóa án tích: Án số 103/HSST ngày 30/3/2006, Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử 15 tháng tù cho hưởng án treo, 18 tháng thử thách về tội Trộm cắp tài sản; Án số 192/2008/HSST ngày 16/9/2008, Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Án số 123/2016/HSST ngày 19/7/2016, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xử phạt 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém và bản thân là đối tượng nghiện ma túy, nên cần phải xử lý nghiêm, bắt phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma tuý Công an thu giữ của bị cáo sau khi lấy đi giám định, lượng còn lại và bao bì hoàn lại xét là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 16M9 – 807X thu giữ của M, quá trình điều tra chưa xác định được chủ sở hữu hợp pháp của xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận Lê Chân tiếp tục lưu giữ chiếc xe để điều tra, xác minh xử lý sau.

Đối với điện thoại di động iphone màu vàng đã cũ thu giữ của bị cáo là tài sản riêng của bị cáo, trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng thu giữ của bị cáo là tài sản riêng của bị cáo, trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án đối với bị cáo

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Trà M 36 (ba mươi sáu) tháng tù; về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 19 tháng 5 năm 2020.

Về xử lý tang vật: Tịch thu tiêu huỷ lượng ma túy còn lại và vỏ bao bì hoàn lại sau giám định.

Trả lại bị cáo chiếc Iphone màu vàng đã cũ và 200.000 (hai trăm nghìn) đồng, nhưng cần tạm giữ số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn) đồng, để đảm bảo thi hành án. (Theo biên lai thu tiền số 0004584 ngày 06 tháng 8 năm 2020 và Biên bản giao, nhận tài sản, vật chứng ngày 06 tháng 8 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Lê Chân).

Về án phí: Bị cáo phải chịu nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 132/2020/HS-ST ngày 22/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:132/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về