Bản án 132/2020/HS-PT ngày 12/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

 BẢN ÁN 132/2020/HS-PT NGÀY 12/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12/9/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 105/2020/TLPT-HS ngày 13/8/2020 đối với bị cáo Đỗ Thị B do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 08/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: Đỗ Thị B (T), sinh ngày 07 tháng 5 năm 1975 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: Tổ 3, phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Buôn bán; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Phật Giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn A (s) và bà Huỳnh Thị H (c); Có chồng là Huỳnh Nhựt T (đã ly hôn) và có 02 con: con lớn sinh năm 1995 và con nhỏ sinh năm 1997; Tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 07/4/2020, Đỗ Thị B điều khiển xe mô tô BKS 43HE-01xx đi đến chợ T (thuộc xã H) để mua rau về bán lại. Đến chợ thì B gặp bà Lê Thị L hỏi mua rau, nhưng bà L hết rau, nên bà L dẫn B về nhà của mình để cắt rau bán cho B. Về đến nhà bà L, B gặp ông Nguyễn Đ (sinh năm 1948) là chồng bà L nhờ đổi tiền. Sau khi đổi tiền xong thì B ngồi nói chuyện với ông Đ, một lúc sau ông Đ đứng dậy đi ra ngoài, lúc này B nhìn thấy trong gối trên giường của ông Đ có một chiếc ví nổi lên nên B liền lấy chiếc ví cất vào túi áo khoác của mình rồi ra nói chuyện với bà L. Được khoảng 05 phút thì B nói với bà là đi có công chuyện, tý quay lại lấy rau. B điều khiển xe chạy về nhà của mình mở ví ra và đếm trong ví có được số tiền là 5.700.000đ và một số giấy tờ tùy thân. B liền lấy tiền cất còn ví và giấy tờ trong ví thì mang đi vứt thùng rác gần nhà.

Đến ngày 08/4/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa Vang mời Đỗ Thị B lên trụ sở làm việc. Qua làm việc Đỗ Thị B đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình và giao nộp lại số tiền 5.700.000đ.

Tại Bản án sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 08/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i, k khoản 1 Điều 52 BLHS.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thị B 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, phần án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 14/7/2020, bị cáo Đỗ Thị B có đơn kháng cáo với nội dung: Xin xét xử theo trình tự phúc thẩm để xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Thị Bé theo đúng thủ tục và trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ.

Về nội dung: Xét về nội dung đơn kháng cáo của bị cáo thì thấy Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2020/HS-ST ngày 08/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 BLHS là có cơ sở, mức án mà cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đã nhẹ, là mức thấp nhất của khung hình phạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Bị cáo Đỗ Thị B giữ nguyên kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đơn kháng cáo, cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc con cái và cha già 70 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Đỗ Thị B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó HĐXX có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 07h30’ ngày 07/4/2020, tại nhà của ông Nguyễn Đu ở tại thôn T, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng, Đỗ Thị B đã có hành vi lén lút trộm cắp một chiếc ví da bên trong có số tiền 5.700.000đ của ông Đ.

Vì vậy, Bản án hình sự sơ thẩm 33/2020/HS-ST ngày 08/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng tội.

[2]. Xét nội dung đơn kháng cáo của bị cáo, HĐXX thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo phạm tội với người bị hại là người trên 70 tuổi và bị khuyết tật nặng nên đối với bị cáo cần phải xử phạt thỏa đáng, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo là người không biết chữ, nhận thức pháp luật còn hạn chế, chỉ phạm tội nhất thời, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, Giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt không lớn. Quá trình điều tra đến nay, bị cáo đều khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự nguyện giao nộp lại toàn bộ số tiền để trả cho người bị hại. Nhân thân bị cáo tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, có chồng nhưng đã ly hôn nên bị cáo là lao động chính trong gia đình. Do đó, chưa cần thiết cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà cho cải tạo, giáo dục tại địa phương là cũng thỏa đáng. HĐXX chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm, giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 355 và điểm e khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Thị B, sửa án sơ thẩm.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i, k khoản 1 Điều 52; Điều 65 Bộ luật hình sự .

Xử phạt bị cáo Đỗ Thị B 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách là 12 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Tuyên giao bị cáo về Uỷ ban nhân dân phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 (hai) lần trở lên, thì Toà án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Bị cáo Đỗ Thị B không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 132/2020/HS-PT ngày 12/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:132/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về