Bản án 132/2019/HSST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 132/2019/HSST NGÀY 08/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 123/2019/HSST, ngày 26 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1961.

Nơi cư trú: Thôn Ngọc Thành 1, xã Ngọc Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: Lớp 05/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Trang (tên gọi khác: Nguyễn Ngọc Trang, Nguyễn Ngọc Chang) và bà Dương Thị Chấp; Vợ: Vũ Thị Chuyên; Con: Có 03 con; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Tại bản án số 27 ngày 30/9/1993 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang bị cáo bị xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản Xã hội chủ nghĩa”, 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 06 năm tù. Bị cáo phải bồi thường dân sự số tiền 1.170.000 đồng.

- Tại bản án số 113/HSST ngày 18/6/1994 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc bị cáo bị xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán phụ nữ”, tổng hợp với bản án số 27 ngày 30/9/1993 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 13 năm tù và nộp lại số tiền 680.000 đồng.

Bị cáo được đặc xá tha tù trước thời hạn ngày 01/02/2005. Đối với phần dân sự, qua xác minh xác định: Không thể hiện kết quả thi hành án của Nguyễn Văn T. Hiện cũng không tìm thấy hồ sơ thi hành án dân sự của Nguyễn Văn T nên không xác định được T đã thi hành xong hay chưa.

- Tại bản án số 68/2005/HSST ngày 10/10/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây bị cáo bị xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung 5.000.000 đồng. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/12/2012. Về hình phạt bổ sung, qua xác minh thể hiện: Không xác định được Nguyễn Văn T đã thi hành xong hay chưa.

- Tại bản án số 45/2019/HSST ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang bị cáo bị xử phạt 06 năm 06 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm”. Phạt bổ sung 20.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/6/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 02/6/2019, tại phòng 202 nhà nghỉ 168 thôn Lương Tân, xã Yên Trung, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, phòng PC04 Công an tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Công an huyện Yên Phong, Công an xã Yên Trung đã bắt quả tang Nguyễn Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, T khai mua của một người thanh niên không quen biết để sử dụng cho bản thân. Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng và đưa bị cáo về trụ sở giải quyết.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 11 viên nén hình tròn (trong đó có 10 viên nén hình tròn màu hồng và 01 viên nén hình tròn màu xanh);

01 tờ tiền mệnh giá 2000 bên trong chứa chất bột màu trắng, thu tại túi áo ngực bên trái của T đang mặc; 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng tại túi quần dài phía trước bên trái T đang mặc; 01 điện thoại Nokia 2080 màu đen đã qua sử dụng gắn sim số 0968.189.547.

Ti bản kết luận số 469/KLGĐMT-PC09 ngày 03/6/2019 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

- 11 viên nén hình tròn (trong đó có 10 viên nén hình tròn màu hồng và 01 viên nén hình tròn màu xanh) bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 1,0642 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine.

- Chất bột màu trắng (được gói trong tờ tiền hai nghìn đồng) bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,1174 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Heroine.

- Các hạt tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,5428 gam; Là ma túy; Loại ma túy: Methamphetamine. Tại bản cáo trạng số 120/CT - VKSYP ngày 20/8/2019 của Viện kiểm sát nhân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Văn T về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Ti phiên toà hôm nay, Nguyễn Văn T thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận: T là người sử dụng ma túy. Khoảng 20 giờ ngày 02/6/2019 T thuê taxi của một người đàn ông không quen biết từ nhà đến thị trấn Thắng, huyện Hiệp Hòa và mua của một người đàn ông không quen biết 01 tép Heroine, 01 túi ma túy đá và 11 viên ma túy ngựa với giá 1.250.000 đồng. Sau khi mua, T cầm số ma túy cất giấu trong người và thuê taxi đến nhà nghỉ 168 tại thôn Lương Tân, xã Yên Trung, huyện Yên Phong để sử dụng ma túy. Khi T đang lên phòng thì bị lực lượng công an kiểm tra phát hiện và bắt giữ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên toà đã khẳng định vào khoảng 21 giờ 15 phút ngày 02/6/2019 tại phòng 202 nhà nghỉ 168 thôn Lương Tân, xã Yên Trung, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1174 gam Heroine và 1,6070 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân nên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túytheo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự và để nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 56 BLHS; Điều 106 BLTTHS tuyên phạt Nguyễn Văn T từ 26 tháng tù đến 30 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 06 năm 06 tháng tù của bản án số 45/2019/HSST ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang về tội “Buôn bán hàng cấm”. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 08 năm 08 tháng tù đến 09 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/6/2019, nhưng được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2018 đến ngày 29/01/2019. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám định. Trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện thoại di động Nokia 1280, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Phong, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng trên là đúng quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra taị phiên toà, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên toà thể hiện: Khoảng 21 giờ 15 phút ngày 02/6/2019 tại phòng 202 nhà nghỉ 168, thôn Lương Tân, xã Yên Trung, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1174 gam Heroine và 1,6070 gam Methamphetamine để sử dụng cho bản thân. Do vậy, đại diện VKSND huyện Yên Phong tham dự phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo thực hiện hành vi cất giữ trái phép là 0,1174 gam Heroine và 1,6070 gam Methamphetamine để sử dụng, nên hành vi của bị cáo bị truy cứu theo khoản điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy, hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng: Không có tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu:

- Tại bản án số 27 ngày 30/9/1993 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang bị cáo bị xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản Xã hội chủ nghĩa”, 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 06 năm tù. Bị cáo phải bồi thường dân sự số tiền 1.170.000 đồng.

- Tại bản án số 113/HSST ngày 18/6/1994 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Bắc bị cáo bị xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán phụ nữ”, tổng hợp với bản án số 27 ngày 30/9/1993 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 13 năm tù và nộp lại số tiền 680.000 đồng. Bị cáo được đặc xá tha tù trước thời hạn ngày 01/02/2005.

- Tại bản án số 68/2005/HSST ngày 10/10/2005 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây bị cáo bị xử phạt 10 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bổ sung 5.000.000 đồng. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/12/2012.

Về hình phạt bổ sung, qua xác minh thể hiện: Đối với phần dân sự không thể hiện kết quả thi hành án của Nguyễn Văn T. Hiện cũng không tìm thấy hồ sơ thi hành án dân sự của Nguyễn Văn T nên không xác định được T đã thi hành xong hay chưa. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo khai nhận đã nộp đủ các khoản tiền phạt, án phí của các bản án trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận lời khai nhận của bị cáo.

- Tại bản án số 45/2019/HSST ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang bị cáo bị xử phạt 06 năm 06 tháng tù về tội “Buôn bán hàng cấm”. Phạt bổ sung 20.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước. Bị cáo T không kháng cáo, bản án trên đã có hiệu lực pháp luật nên cần tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 56 BLHS.

Về các tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS nên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Căn cứ tính chất vụ án, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy cần buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật.

Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, kinh tế gia đình khó khăn nên không cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Liên quan trong vụ án còn có người đàn ông bán ma túy cho T, T khai không quen biết hai người đàn ông này, không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này ở đâu nên không có căn cứ xử lý.

[5] Về vật chứng: Vật chứng thu giữ 0,1174 gam Heroine và 1,6070 gam Methamphetamine, qua giám định khối lượng còn lại sau giám định là 0,0610 gam Heroine và 0,9847gam Methamphetamine. Đây là vật chứng liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội trong vụ án nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với chiếc điện thoại Nokia 1280, vỏ màu đen đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Văn T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điu 56 BLHS; Điều 106; Điều 136; Điều 329 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 30 (ba mươi) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 06 năm 06 tháng tù của bản án số 45/2019/HSST ngày 11/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang về tội “Buôn bán hàng cấm”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 09(chín) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 03/6/2019, nhưng được trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2018 đến ngày 29/01/2019. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (08/10/2019) theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

Về vật chứng: Tịch thu 0,0610gam Heroine và 0,9847gam Methamphetamine còn lại sau giám định để tiêu hủy.

Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại Nokia 1280, vỏ màu đen, đã qua sử dụng có sê ri: 357256052753347, lắp sim số 0968.189.547, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 132/2019/HSST ngày 08/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:132/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về